DỊCH CÂN
KINH
Trình bày trong đại hội Y-khoa châu Âu ngày 14-10-2001
Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ (Paris, France)
Võ-sư Trần Huy Quyền (Melbourne, Australia)
DỊCH
CÂN KINH
(click vào đây xem video 12 thức Dịch cân kinh)
Nguyên
bản : Vô danh thời Minh-Thanh, Trung-Quốc
Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ và Võ-sư Trần
Huy-Quyền chú giải
Copyrigh by Trần Đại-Sỹ - Trần Huy
Quyền
Tác giả giữ bản quyền.
Tout droits réservés.
All rights reserved. |
Thưa Quý Đồng-nghiệp,
Hôm nay chúng ta họp nhau đây, để thảo luận
một đề tài vừa có tính chất Y-học,
vừa có tính chất Võ-học, Thể-thao rất cổ
của Trung-quốc. Tại các Đại-học Y-khoa Á-châu
Thái-bình dương, việc đưa vấn đề như
thế này vào giảng dạy, là một sự bình thường
từ đầu thế kỷ thứ 20. Nhưng tại châu
Âu chúng ta thì thực là hiếm hoi. Hơn nữa đề
tài, mà chúng ta bàn luận đây, sẽ gây ra rất
nhiều tranh luận. Đó là:
Dịch cân kinh
Dịch Cân kinh là tiếng gọi tắt của Dịch Cân
Tẩy Tủy Kinh. Bộ sách này đầy những
huyền thoại, đầy những ngụy tạo, đầy
những mơ hồ, đã làm hại biết bao nhiêu người
tin vào các bản ngụy tạo, rồi luyện tập, gây
ra phản ứng nguy hại cho cơ thể, dĩ chí
chết người.
Vì vậy sau buổi hội thảo hôm nay, tôi xin Quý-vị
hãy vì Y-đạo, chịu khó giảng dạy cho người
xung quanh, cho thân chủ, để sự thực được
soi sáng.
Phần thứ nhất: Dẫn nhập
1.- Nguồn gốc
Trong hằng trăm nghìn ngôi chùa Phật-giáo trên thế
giới, không một ngôi chùa nào được tiểu
thuyết hóa, huyền thoại hóa và thần thánh hóa
bằng chùa Thiếu-lâm bên Trung-quốc (1). Và cũng trong
hằng triệu vị tăng, không vị nào được
viết, được nói, được tôn sùng
bằng ngài Bồ-đề Đạt-ma. Bỏ ra ngoài
vấn đề tôn giáo, quả thực Ngài là một
trong những người đã đem Thiền-công vào
Trung-quốc, và làm cho quảng bá.
Ghi chú,
Trung-quốc có 3 ngôi chùa đều mang tên Thiếu-lâm.
1, Hà-Nam đăng phong Tung-sơn Trung-châu Thiếu-lâm
tự,
2, Hà Bắc Bàn-sơn Thiếu-lâm tự,
3, Phúc-kiến Tuyền-châu Nam Thiếu-lâm tự,
Một trong những sự kiện người ta từ
thần thánh hóa ngài, rồi đi đến ngụy
tạo ra những bộ Thiền-công, Khí-công và gán cho ngài
là tác giả. Trong đó có bộ Dịch Cân Tẩy
Tủy Kinh. Bài tựa bộ Thiếu-lâm tự tư
liệu của Vưu Cốc, Diêu Nguyên, do Văn-hiến
xuất bản xã Bắc-kinh, xb. tháng 10-1984, phần
tựa, trang 2 viết:
"Từ trước đến nay, mật bản
Dịch Cân kinh nói là nội công Thiếu-lâm, rồi
được lưu truyền trên trăm năm đến
giờ. Căn cứ vào sự kết thành của nội
dung bộ sách cũng như cú pháp thì không thể nào tin
được. Bộ này chỉ có thể được
viết vào thời Thanh Khang-hy (1662-1723), Ung-chín h(1723-1736) là
quá. Trong thời vua Quang-tự (1875-1909), chính Phúc-sơn Vương
Tổ Nguyên cũng đã viết: Xét đến Tung-sơn
Thiếu-lâm tự, người ta mạo ra tập
Nội-công đồ, phổ biến rất rộng".
Thực sự Dịch Cân kinh là bộ sách Khí-công do các
Đạo-gia Trung-quốc soạn ra vào cuối đời
Minh hay đầu đời Thanh, tương đương
với bên Đại Việt vào cuối đời Lê sang
đời Nguyễn. Lúc mới xuất hiện Dịch Cân
Kinh chỉ là một trong hằng trăm bộ sách Khí-công,
không quá siêu việt. Bộ sách này trước năm 1950
chẳng nổi tiếng cho lắm. Nhưng từ khi nhà văn
Kim Dung, tiểu thuyết hóa đi trong Thiên-long Bát-bộ,
thì bộ kinh này trở thành thánh kinh. Nổi tiếng
đến độ đã có người bị ngã
gẫy chân, thay vì đi tìm thầy điều trị,
lại nằm ỳ ở nhà luyện, hút nữa phải
cưa chân. Tác giả Dịch Cân kinh không biết là ai.
Dịch Cân kinh ra đời khoảng 1662-1736, thế nhưng
Kim-Dung lại cho nhân vật tiểu thuyết Mộ Dung Bác,
Du Thản Chi, Cưu Ma Trí luyện vào đời Bắc
Tống (960-1127). Có lẽ Kim Dung cho rằng mình viết
tiểu thuyết, nên không cần sự chinh xác, rồi ông
cũng và gán cho tác giả là ngài Bồ-đề Đạt-ma
của chùa Thiếu-lâm. Thành ra từ thập niên 60
thế kỷ thứ 20, người Việt không hề
thấy bộ sách này, rồi cho rằng đó là bộ sách
trong huyền thoại, không có thực.
Một số người thất học, trong đó có vài
võ sư, vài thầy lang Việt-Nam, chưa hề thấy
bản Dịch Cân Kinh trên, họ phịa ra nhiều
bản Dịch Cân kinh, rồi đem phổ biến.
Tất nhiên quần chúng tin ngay. Trong thời gian 1960-1975
ở miền Nam Việt-Nam, ngay khi ra ngoại quốc
(1975-2001) lưu truyền "một phương pháp"
luyện Dịch Cân kinh, bằng tiếng Việt, chỉ có
một thức duy nhất là đứng thẳng buông
lỏng rồi vẫy tay như chim non tập bay. Đính kèm
còn chép thêm rằng nhiều người tập, đã
chữa khởi ung-thư gan, lao thận, Parkinson, huyết
áp cao, và hàng chục thứ bệnh nan y. Cho rằng đây
là một ấn bản khác của Dịch Cân Kinh, tôi
đã bỏ công tra trong các thư viện của những
Đại-học Y-khoa Thượng-hải, Giang-tô,
Hồ-Nam, Phúc-kiến, dĩ chí đến các gia, các phái
võ thuộc các hệ Thiếu-lâm ở Hương-cảng,
Đài-loan, nhưng cũng không thấy. Vì vậy tôi
đặt tên bản này là Dịch Cân Kinh Việt-Nam
(DCKVN), vìø được sáng tác vào thời kỳ
1960-1975.
Gần đây một vài tờ báo Việt-ngữ bên
Hoa-kỳ lại lưu truyền một bản Dịch Cân
kinh nữa, hơi giống bản DCKVN, hơn nữa còn
đăng lời xác nhận giá trị của Bác-sĩ Lê
Quốc Khánh (sinh 1932), người từng học ở
Đại-học Quân-y, từng làm việc chung với các
bác sĩ Pháp, Mỹ, Phi-luật-tân, và cộng tác với
Bác-sĩ Đinh Văn Tùng trong công cuộc nghiên cứu
trị ung thư bằng Phẫu-thuật (1936-1965), nghĩa
là ông Khánh mới 3 tuổi đã thành bác sĩ. (Tài
liệu đính kèm). Tôi không phủ nhận tập tài
liệu này, tôi hứa sẽ nghiên cứu kỹ rồi xác
nhận sau.
Từ năm 1974, một số Đại-học Y-khoa
Trung-quốc dùng Dịch Cân kinh làm khóa bản giảng
dạy cho các thầy Tẩm-quất (Kinésithérapeutre) và Bác-sĩ
Thể-thao để luyện lực phục hồi sau khi
trị bệnh bị tiêu hao chân khí. Tài liệu còn dùng
trị bệnh kết hợp Tây-y, Trung-dược, Châm-cứu:
_ Lão khoa,
_ Thần kinh,
_ Não khoa, (Neurology)
_ Niệu khoa (Urology)
_ Phong thấp (Rhumatology)
_ Phế khoa (Pneumology)
_ V.v...
Đến đại hội Y-khoa toàn quốc năm 1985, các
trường Đại-học Y-khoa trao đổi kinh
nghiệm, đã chú giải, phân tích, tước bỏ
phần có hại, hoặc không có kết quả đi.
Từ đấy Dịch Cân kinh được giảng
dạy chung với một số bộ Khí-công khác, theo
thứ tự là:
1, Dịch Cân kinh,
2, Tráng yêu bát đoạn công, (8 thức luyện cho lưng
khỏe).
3, Ngũ cầm công, (năm thức luyện nhái theo 5
loại thú).
4, Bát đoạn cẩm, (8 thức Khí-công đẹp như
gấm).
5, 24 thức luyện công của Trần Hy-Di.
6, Nội đơn thuật (căn cứ vào Kinh Dịch,
Đạo Đức kinh).
7, Thất diệu pháp môn (bẩy phép luyện công
tuyệt diệu).
Sở dĩ Dịch Cân kinh được đưa lên hàng
đầu vì những lý do sau:
_ Dễ luyện,
_ Luyện mau kết quả,
_ Khi luyện dù trẻ con, dù người già, dù ngộ tính
kém cũng thu được kết quả.
_ Dù luyện sai, chỉ thu kết quả ít, chứ không
sợ nguy hiểm.
Tuy vậy nếu bàn về kết quả luyện
thần, luyện thể thì Dịch Cân kinh thua xa 24
thức luyện của Trần Hy Di.
Vì luyện Thiền-công, Khí-công từ nhỏ, nên trong
thời gian học tại Đại-học Y-khoa Thượng-hải,
tôi theo dõi những buổi giảng Khí-công rất kỹ.
Sau khi rời Thượng-hải, trở về Paris, tôi
luyện Dịch Cân kinh liên tiếp 5 năm. Trong lúc
luyện tôi đã gặp những khúc mắc khó khăn,
nan giải, đành chịu, không biết bàn với ai.
Phải chờ đến 1987, tôi sang Úc, ở tại nhà
bào đệ là Trần Huy Quyền vấn đề
mới được soi sáng.
Trong gia đình 6 anh em tôi, thì Quyền là người thông
minh nhất. Bất cứ vấn đề gì rắc
rối, bí hiểm đến đâu, Quyền chỉ suy
nghĩ khoảng nửa giờ là kiến giải sáng
suốt. Tôi là thầy thuốc thiếu kinh nghiệm
dạy võ thuật, lại nữa tôi chỉ dạy Khí-công
cho những sinh viên đã tốt nghiệp Đại-học
Y-khoa, nên không có cái nhìn tổng quát. Còn Quyền thì
dạy đệ tử nhỏ nhất là 6 tuổi,
lớn nhất có khi tới 80, lại có đủ trình
độ kiến thức. Vì vậy Quyền nhiều kinh
nghiệm sư phạm hơn tôi. Tôi đem Dịch Cân
kinh ra bàn với Quyền. Vì Quyền đã học võ
từ năm 11 tuổi, dạy võ 22 năm (năm đó
Quyền 42 tuổi), rất nhiều kinh nghiệm. Trong
một tháng, anh em đã trao đổi, bao nhiêu khúc
mắc đều giải được hết. Năm sau
(1988) tôi trở lại Úc, chúng tôi ra soạn thành tài
liệu.
Nay nhân đại hội Y-khoa Châu-âu của ARMA, do yêu
cầu của anh em, một lần nữa tôi sửa đổi,
thêm kinh nghiệm, đem ra giảng dạy. Tôi tin rằng
anh chị em sẽ hội lĩnh được hết. Trước
là luyện cho thể kiện, tâm an, thần tĩnh. Sau là
dạy cho thân chủ, giúp họ trị bệnh.
2.- Nội dung
Bản Dịch Cân Kinh mà các Đại-học Y-khoa
Trung-quốc dùng là cổ bản từ cuối đời
Minh, đầu đời Thanh, lưu truyền tới nay.
Nội dung Dịch Cân kinh chia ra làm 12 thức. Mỗi
thức gồm nhiều câu Khẩu-quyết, theo thể văn
vần để dễ nhớ. Tôi không phiên âm, cũng như
dịch nguyên văn, vì tối vô ích. Tôi chỉ giảng
nghĩa, phân tích các câu quyết đó rất chi tiết.
Tuy nhiên sau mỗi thức tôi cũng chép nguyên bản
bằng chữ Hán, cũng như hình vẽ trong cổ
bản để độc giả tham chước. Về
tên mỗi thức, tôi không theo cổ bản mà theo
bản của các Đại-học Y khoa Trung-quốc.
Cũng như tất cả thư tịch Trung-quốc,
trải qua một thời gian dài, các câu Khẩu-quyết
này bị nạn tam sao thất bản. Khi san định,
phân tích để đem làm tài liệu, ban tu thư các
Đại-học đã vứt bớt đi hầu
hết các bản, chỉ nghiên cứu 27 bản mà thôi.
Phần tôi trình bầy đây là theo bản của Đại-học
Y-khoa Thượng-hải và tham chước bản của
các Đại-học Thành-đô, Giang-tô, Bắc-kinh, Vân
Nam.
Mỗi thức gồm có:
_ Động tác và tư thế, để chỉ thế
đứng khởi đầu, rồi các động tác
biến hóa, thở hít.
_ Hiệu năng (actions), để chỉ tổng quát
của kết quả đạt được nếu
luyện đúng.
_ Chủ trị (Indications). Tôi dùng chữ Chủ-trị sát
nghĩa hơn là chữ Chỉ-định.
_ Vị trí, huyệt vị. Mỗi khi định vị trí
trên cơ thể, tôi diễn tả rất chi tiết,
để đọc giả có thể luyện một mình.
Tuy nhiên tôi lại mở ngoặc định rõ chỗ
ấy thuộc kinh nào, huyệt nào, để các vị Bác-sĩ,
Châm-cứu gia, Võ-sư, dễ nhận hơn. Độc
giả chẳng nên thắc mắc làm gì.
Phần thứ nhì: Chuẩn bị
1.- Điều kiện để luyện,
_ Từ sáu tuổi trở lên.
_ Chỗ luyện phải thoáng khí, không bị nhiễu
loạn vì tiếng động, không nóng hay lạnh quá (20
đến 30 độ C).
_ Ăn vừa đù no, không đói quá, không no quá, không
say rượu.
_ Y phục rộng.
_ Giải khai đại tiểu tiện trước khi
luyện.
_ Luyện từng thức theo thứ tự.
_ Không nhất thiết phải luyện đủ 12
thức một lúc.
_ Khi mới luyện, luyện từng thức một.
Tỷ dụ hôm nay luyện thức thứ nhất. Ngày
mai ôn lại thức thứ nhất, rồi luyện sang
thức thứ nhì. Ngày thứ ba ôn lại hai thức
đầu rồi luyện thức thứ ba.
_ Mỗi ngày luyện một hay hai lần.
_ Trong toàn bộ tôi dùng chữ: thổ nạp để
chỉ thở hít hay hô hấp. Thổ (hô) để
chỉ thở ra. Còn gọi là thổ cố nạp tân
(thở khí cũ ra, nạp khí mới vào). Nạp
(hấp) để chỉ hít vào. Thổ nạp dài
ngắn tùy ý, không bắt buộc.
_ Dẫn khí, tức dùng ý dẫn khí, hay tưởng tượng
dẫn khí theo hướng nhất định.
2.- Trường hợp không nên luyện Dịch Cân kinh,
_ Đang bị cảm, cúm, sốt.
_ Bị thương các vết thương chưa đóng
sẹo.
_ Phụ nữ có thai từ 3 tháng trở đi (Phụ
nữ đang cho con bú luyện rất tốt).
_ Ăn no quá hay đói quá.
_ Sau khi làm việc quá mệt.
3.- Tư thức dự bị lúc mới luyện.
Đứng: thân ngay thẳng tự nhiên.
_ Hai chân mở vừa tầm, rộng bằng hai vai,
_ Gối, bàn chân tự nhiên, thẳng,
_ Hai vai, tay buông thõng, hai bàn tay khép nhẹ,
_ Mắt nhìn thẳng phía trước, không lưu ý vào hình,
cảnh,
Tiến hành toàn thân buông lỏng:
Mắt đầu, cần cổ, hai vai, hai tay, ngực, lưng,
bụng, đùi, chân...
Buông lỏng hay còn gọi là phóng túng, nghĩa là thả
cho cơ thể tự do, không cố gắng, không chú ý,
không suy nghĩ.
_ Ý niệm: thần tĩnh, không suy nghĩ, không chú ý
đến âm thanh, mầu sắc, nóng lạnh.
_ Hơi thở bình thường.
Đây là tư thức căn bản, lấy làm gốc
khởi đầu cho nhiều thức. Tất cả các
thức Dịch Cân kinh đều là lập thức
(thức đứng). Không có Ngọa thức (thức
nằm) và Tọa thức (thức ngồi).
4.- Hiệu năng,
_ Điều thông khí huyết,
_ Tăng vệ khí,
_ Ích tủy thiêm tinh,
_ Kiên cân, ích cốt.
_ Gia tăng chân-nguyên khí,
_ Minh tâm, định thần,
_ Giữ tuổi trẻ lâu dài.
_ Gia tăng nội lực.
5.- Chủ trị,
_ Có thể trị độc lập, hay phụ trợ cho
việc trị bệnh bằng bất cứ khoa nào: Tây-y,
Châm-cứu, Trung-dược v.v.
_ Phục hồi sức khỏe sau khi trị bệnh:
Trị tất cả các bệnh khí: khí hư, bế khí,
khí hãm.
Trị tất cả các bệnh về huyết: huyết hư,
bần huyết.
Trị tất cả các chứng phong thấp.
Trị tất cả các bệnh về thần kinh.
Trị tất cả các bệnh tâm, phế.Phần
thứ ba
Phương
pháp luyện Dịch Cân kinh
Phần thứ ba: 12 thức Dịch Cân kinh
-
Thức
thứ nhất: Cung thủ đương hung (Chắp
tay ngang ngực).
-
Thức
Thứ Nhì: Lưỡng Kiên Hoành Đản (Hai vai đánh
ngang).
-
Thức
Thứ Ba: Chưởng Thác Thiên Môn (Hai tay mở lên
trời)
-
Thức
Thứ Tư: Trích Tinh Hoán Đẩu (Với sao, đổi
vị)
-
Thức
Thứ Năm: Trắc Sưu Cửu Ngưu Vỹ ( Nghiêng
mình tìm đuôi trâu).
-
Thức
Thứ Sáu: Xuất Trảo Lượng Phiên (Xuất móng
khuất thân)
-
Thức
Thứ Bảy: Bạt Mã Đao Thế (Cỡi ngựa
vung đao)
-
Thức
Thứ Tám: Tam Thứ Lạc Địa (Ba lần
xuống đất)
-
Thức
Thứ Chín: Thanh Long Thám Trảo (Rồng xanh dương
vuốt)
-
Thức
Thứ Mười: Ngoạ Hổ Phốc Thực
(Cọp đói vồ mồi).
-
Thức
Thứ Mười Một: Hoành Chưởng Kích Cổ
(Vung tay đánh trống)
-
Thức
Thứ Mười Hai: Đề Chủng Hợp Chưởng
(Đưa gót hợp chưởng)
-
Phần
thứ tư: Tổng kết.
Thưa Quý Đồng-nghiệp,
Quý vị vừa nghe chúng tôi trình bày phương pháp
luyện Dịch Cân kinh. Sau đây tôi xin có đôi
lời cuối cùng:
1.- Khi Quý-vị đem giảng cho thân chủ, chắc
chắn Quý-vị sẽ gặp những người
từng luyện bản Dịch Cân Tẩy Tủy kinh này.
Tuy nhiên những động tác có khác. Lý do, có thể
họ học ở các Võ-sư, mà bản chất
của các Võ-sư là luyện lực. Quý vị
cần phân tích cho họ biết cái khác nhau. Cũng có
thể Quý-vị sẽ gặp những người
luyện phải bản bịa đặt.
2.- Những động tác mà chúng tôi trình bày trong bài
này, chỉ có tính cách tượng trưng, không
nhất thuyết phải giữ vị trí này hay vị
trí nọ.
3.- Khi mới luyện thì mỗi ngày chỉ luyện
một lần, mỗi lần một thức. Sau khi
đã quen rồi, thì cũng mỗi ngày một lần,
mỗi lần nhiều thức.
4.- Cổ nhân nói: Văn ôn, võ luyện, quý dĩ chuyên.
Nghĩa là học văn thì phải ôn nhiều lần;
luyện võ thì cần chuyên. Muốn có kết quả
thì ngày nào cũng phải luyện.
5.- Một yếu tố quan trọng, là sau khi luyện
phải thu công. Không thu công thì khí sẽ chạy
hỗn loạn.
- Phần
thứ năm Thu công
- Phụ
lục: Tài liệu Dịch Cân kinh ngụy tạo.
Thưa Quý đồng nghiệp,
Dưới đây là phần phụ lục về
bản Dịch Cân kinh mới được sáng
tạo trong nội địa Việt-Nam, do người
Việt truyền tụng, nhưng cũng gán cho tác
giả là Bồ-đề Đạt-ma (mà tôi đã nói
ở phần đầu). Xuất phát tập tài
liệu này từ Lương-y Phạm Văn Bình trao
cho ông Phạm Viết Hồng Lam, giảng viên
Hội-họa trường Cao-đẳng Sư-phạm
Nhạc-họa (Hà-nội? Sài-gòn?). Ông Lam luyện
từ ngày 7-2-89 đến tháng 5-89 thì khỏi chứng
Ung-thư họng thời kỳ thứ nhì!!! Sau đó
ông Lam cho đăng trên báo Hà-nội Mới (không rõ
số ra ngày nào?). Sau liệu này truyền sang
Hoa-kỳ, đăng trên báo Người Việt USA
số 17-11-2000 , và nhà văn Vũ Hạnh sưu
tầm được!!!
Biết chắc trăm phần trăm là ngụy
tạo, một loại ngụy tạo nhà quê, để
che dấu hình thức quảng cáo rẻ tiền. Tuy nhiên
vì trong tài liệu còn có sự chứng nhận của
đồng nghiệp Lê Quốc Khánh (?) khiến chúng ta
không thể phủ nhận hoàn toàn. Mong Quý Đồng-nghiệp
nghiên cứu, và thông báo cho tôi biết kết quả.
Tôi cũng nhắc ở đây là trong những Bác-sĩ
tốt nghiệp thời Pháp, cũng như thời
Việt-Nam Cộng-hòa, không có Bác-sĩ nào tên Lê
Quốc Khánh cả. Chỉ có một Bác-sĩ Lê
Quốc Hanh ra trường năm 1960, quá trẻ so
với Bác-sĩ Khánh trong bài này.
Hết