NGUYỄN BÁ TĨNH - THIỀN SƯ TUỆ TĨNH

THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP 

 

THÂN THẾ: Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh , biệt hiệu là Hồng Nghĩa, pháp hiệu là Tuệ tỉnh. Sinh ở làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, Huyện Cẩm Giàng, Phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương. Nay là Thôn Nghĩa Phú xă Tuệ Tĩnh, Huyện Cẩm Giàng, Tỉnh Hải Hưng. Thôn nầy ở cách ga Cao Xá  trên đường sắt Hà Nội - Hải Pḥng 1 cây số rưỡi và cách Tỉnh lỵ  và cách Tỉnh lỵ Hải Dương hơn 10 cây số .

    V́ sinh ở làng Nghĩa Phú phủ Thượng Hồng, nên Tuệ Tĩnh đặt biệt hiệu là Hồng Nghĩa.

    Về năm sinh của Tuệ Tĩnh hiện nay chưa có tài liệu lịch sữ chính xác, theo các phụi lăo địa phương Tuệ Tĩnh sinh vào đời Trần  ( 1225 - 1414 ) Thế kỷ  XIV.  Gaspardone cho rằng  Tuệ Tĩnh sinh vào đời Trần Duệ Tông( 1372 - 1377 ).

    Về thanh danh của Tuệ Tĩnh Các tài liệu hiện nay cũng chưa thống  nhất. Tương truyền Tuệ Tĩnh là một nhà sư thông minh lỗi lạc, thi đậu đệ nhị giáp Tiến sĩ tức Hoàng giáp, và lại giỏi thuốc nên bị bắt đi cống cho nhà Minh, và ở Trung Quốc Tuệ Tĩnh chữa cho Tống vương phi (vợ vua Minh) khỏi bệnh sản hậu, nên được phong là "Đại Y Thiền sư". Hiện nay ở các đền thờ Tuệ Tĩnh có những câu đối ngụ ư về các sự tích đó. Ví dụ ở đền Bia làng Văn Thai có câu :

                                    "Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa,

                                     Thánh sư diệu dược trấn Nam bang" 

        Tạm dịch :

                                    "Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc

                                     Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam bang"

    Hải Dương phong vật chí (A. 882 Fo 76b của Thư viện khoa học xă hội chép: "Tuệ Tĩnh tiên sinh, thầy thuốc danh tiếng ở xă Nghĩa Phú, huyện Cầm Giàng, chuyên dùng thuốc Nam chữa bệnh rất công hiệu, có chép các tập dược tính chỉ nam và 13 phương giảm truyền lại đời sau". Bài tựa trong Hồng Nghĩa giác tư y thư cũng nói : "Tuệ Tĩnh là một nhà sư, nghiên cứu rộng bí quyết âm dương , t́m hiểu sâu diệu thuật Kỳ Biến" (Kỳ Bá và Biển Thước).

    Theo hai tài liệu trên này, Tuệ Tĩnh là một bậc đại thiền, đại nho, đại y Việt Nam.

    SỰ NGHIỆP : Để dùng thuốc Nam chữa bệnh cho người Nam và để phục vụ nhân dân nghèo khổ được rẻ tiền, Tuệ Tĩnh đă nghiên cứu những cây cỏ Việt Nam dùng để chữa bệnh, đă sưu tầm ư nghĩa các bài thuốc giản dị thường dùng trong dân gian, đă thu thái các kinh nghiệm trị bệnh của Trung y..., nên đă xây dựng được một sự nghiệp y dược có tính chất dân tộc, đại chúng và sáng tạo trong một thời kỳ mà thuốc Bắc rất thịnh hành. Tuệ Tĩnh đă để lại hai tác phẩm là Hồng nghĩa giác tư y thư và Nam dược thần hiệu.

    a/ Hồng nghĩa giác tư y thư : Bộ này gồm hai quyển : Thượng và Hạ, vừa bằng chữ Nôm vừa bằng chữ Hán.

     Quyển thượng gồm :

      Bài phú về thuốc Nam bằng chữ Nôm.

      Bài phú về dược tính bằng chữ Hán.

      Các mục về Y lư chung như can, chi, bát quái, tạng phủ...

      Chủ trị của các thuốc.

      Thuốc bổ, tả, ôn, lương của 12 kinh.

    Ba đơn thuốc thường dùng là : "Như ư đơn", (bài thuốc chữa được nhiều bệnh vừa ư ḿnh), "Hồi sinh đơn" (bài thuốc làm cho sống lại để chữa các bệnh đàn bà) và "Bổ âm đơn" (bài thuốc bổ phần âm để trị các bệnh như người gầy khô, nóng âm ỉ...)

    37 phương kinh nghiệm...

    Quyển hạ gồm :

    13 phương gia giảm. 

    37 phương trị thương hàn.

    Đề cương phép trị các bệnh...

b/ Nam dược thần hiệu : Bộ này gồm 11 quyển:

    Quyển đầu nói về dược tính của 499 vị thuốc Nam.

    Mười quyển sau, mỗi quyển nói về một khoa trị bệnh (mục lục ở sau).

PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU CỦA TUỆ TĨNH : Đọc bộ Nam dược thần hiệu, ta thấy về mỗi bệnh, Tuệ Tĩnh nêu lên nguyên nhân, bệnh lư và chứng trạng, rồi theo bệnh, theo chứng, tuỳ từng trường hợp nêu những kinh phương hay truyền phương để trị : đó là một phương pháp rất đơn giản, rất đại chúng và rất dễ áp dụng cho mọi người. Hơn nữa cái đặc sắc của Tuệ Tĩnh là dùng hầu hết những phương thuốc giản dị với những vị thuốc sẵn có ở Việt Nam. Ngoài những phương pháp trên, Tuệ Tĩnh cũng dùng các phương pháp thực trị, vật lư trị liệu như thoa bóp, chườm cứu... Tuy nhiên do điều kiện lịch sử, hoàn cảnh xă hội và tư tưởng phong kiến bấy giờ, Bộ "Nam dược thần hiệu" không khỏi có một số điểm mà hiện giờ ta cho là duy tâm, không hợp với khoa học, hoặc nhận định quá đáng về kết quả. Song căn bản bộ sách này có một giá trị khoa học nhất định v́ đă thu thập được nhiều kinh nghiệm chữa bệnh rất đại chúng của nhân dân ta.

ẢNH HƯỞNG CỦA TUỆ TĨNH : Bộ Hồng nghĩa giác tư y thư và nhất là bộ Nam dược thần hiệu có ảnh hưởng rất sâu rộng trong y gia Việt Nam. Nó đă chỉ dẫn cách dùng thuốc Nam để trị bệnh cho đại đa số nhân dân nghèo khổ, để y dược phổ cập đến nhân dân. Qua các thế kỷ và hiện nay, có một số thầy thuốc theo phương pháp trị liệu của Tuệ Tĩnh mà chữa bệnh cũng rất kết quả. Hải Thượng Lăn Ông  là một bậc Đại Y tôn cũng chịu ảnh hưởng Tuệ Tĩnh trong công việc biên soạn quyển Lĩnh Nam bản thảo. 

KẾT LUẬN : Tuệ Tĩnh là một danh y Việt Nam đă mở đường cho sự nghiên cứu thuốc Nam, xây dựng nền móng cho Y học dân tộc. Tuệ Tĩnh đă tổng hợp và để lại những bài thuốc kinh nghiệm quư báo cho một số khá nhiều bệnh tật. Đó là một tài liệu có giá trị lớn cho sự thừa kế và phát huy vốn cũ Y dược của nhân dân ta, thật là một cống hiến rất lớn. Để tiếp tục sự nghiệp ấy, chúng tôi thiết tưởng nên gia công nghiên cứu, chọn lọc, áp dụng những kinh nghiệm đó, đồng thời t́m cho được quy luật trị liệu của các bài thuốc quư báu của dân tộc ta đă xây dựng từ mấy ngàn năm nay, để chỉnh lư và nâng cao xây dựng một nền Y học Việt Nam xă hội chủng

 

                                 Tài liệu pḥng tu thư huấn luyện viện nghiên cứu Đông y

  Về trang chủ