Ba yếu tố cốt lỏi của Thiền tập

Ng�y nay, Thiền t�ng đang ph�t triển nhanh ở nước Mỹ; ở những quốc gia phương T�y kh�c, thiền cũng được nhiều người quan t�m hơn, đặc biệt l� giới trẻ. Tuy nhi�n, d� c� nhiều người cảm thấy th�ch th� đối với thiền ngay từ l�c đầu, nhưng chỉ c� một số �t người theo đuổi cho đến mục đ�ch cuối c�ng. Tại sao như vậy?

Tại v� sự quan t�m của họ kh�ng được x�y dựng tr�n nền tảng vững chắc, nhiều người đ� từ bỏ sự theo đuổi đối với thiền giữa chừng. Sự quan t�m của họ chỉ đơn thuần l� sự t� m�, đến rồi đi, v�o rồi lại ra một c�ch dễ d�ng như l� sự thay đổi �o quần vậy. Để ki�n tr� theo con đường của thiền, th� ngay từ đầu cần phải biết v� r�n luyện ba nh�n tố cốt l�i của thiền tập.

Bước đầu ti�n l� phải c� niềm tin s�u sắc
 
Khi chấp nhận thực h�nh thiền, ch�ng ta phải c� niềm tin s�u sắc v�o khả năng của t�m ch�ng ta ngay từ l�c khởi đầu, v� phải duy tr� niềm tin ấy xuy�n suốt to�n bộ qu� tr�nh thực tập thiền.
 
Tuy nhi�n, niềm tin được đ�i hỏi trong thiền t�ng kh�c nhiều so với niềm tin được y�u cầu trong những t�n gi�o kh�c. Những t�n gi�o kh�c y�u cầu ch�ng ta đặt niềm tin v�o một đấng si�u nhi�n v� ch�ng ta phải đồng � với một v�i lời x�c nhận li�n quan đến bản chất, thuộc t�nh v� h�nh động của đấng si�u nhi�n ấy; ch�ng ta c� thể gọi niềm tin theo kiểu n�y l� niềm tin v�o người kh�c.
 
Ngược lại, niềm tin trong thiền l� niềm tin v�o ch�nh m�nh. Theo như lời Đức Phật dạy, mọi ch�ng sanh đều c� Phật t�nh, đều c� khả năng th�nh Phật. Ch�ng ta chưa phải l� những vị Phật tại v� ch�ng ta chưa kh�m ph� ra được Phật t�nh ấy. Niềm tin s�u sắc được n�i đến trong Thiền t�ng l� sự tin tưởng rằng Phật t�nh hiện hữu ở trong ta v� với sự tu tập theo phương ph�p m� Đức Phật đ� dạy, ta c� thể đạt đến sự chứng ngộ Phật t�nh ấy.
 
Để nhận ch�n được Phật t�nh của m�nh l� điều kh�ng đơn giản, đ�i hỏi sự thực tập kh�ng ngừng nghỉ v� sự chiến đấu cam go, trường kỳ ở trong bản th�n ch�ng ta. Bởi v� thiền tập kh� khăn như thế n�n nhiều người đ� bỏ giữa chừng, do thế n�n kh�ng c� nhiều vị Phật tr�n thế giới.
 
Đấy ch�nh l� l� do tại sao cần phải c� niềm tin s�u sắc. Điều đầu ti�n v� quan trọng nhất đ� l� tin v�o khả năng tiềm ẩn b�n trong ch�ng ta, tin rằng hạt giống của sự gi�c ngộ nằm ở b�n trong ch�ng ta, v� ch�ng ta kh�ng từ bỏ niềm tin n�y d� cho c� gặp nhiều nội ma, ngoại chướng tr�n đường tu.
 
Ch�ng ta c� thể tin l� ch�ng ta c� khả năng th�nh Phật kh�ng? Tại sao kh�ng? Đức Phật vốn cũng l� một người b�nh thường như ch�ng ta. Ng�i cũng c� m�u đỏ v� nước mắt mặn, th�n v� t�m của Ng�i cũng kh�ng kh�c so với ch�ng ta bao nhi�u. Khi Ng�i chưa gi�c ngộ, Ng�i cũng đ� c� những t�nh cảm thường t�nh, cũng c� những lo �u, những sự m�u thuẫn v� những điều ho�i nghi. Nhưng nhờ sự tham thiền m� Ng�i đ� tự trau dồi v� kh�m ph� ra được Phật t�nh của Ng�i, v� thế Ng�i đ� th�nh Phật, một đấng Gi�c ngộ. Ch�ng ta cũng vậy, với tất cả những rắc rối, với tất cả những điểm yếu, những chướng ngại của m�nh, ch�ng ta vẫn c� khả năng để trở th�nh một vị Phật. Nếu ph�t triển niềm tin n�y v� theo đuổi n� cho đến đ�ch điểm cuối c�ng th� sẽ kh�ng c� chướng ngại lớn lao n�o m� ch�ng ta kh�ng thể vượt qua được.
 
Nhiều người cho rằng con người được tạo n�n bởi ho�n cảnh m�i trường. Theo Thiền t�ng th� con người tạo n�n m�i trường v� v� thế m� ch�nh con người kiến tạo bản th�n họ. Bất cứ những g� ch�ng ta trở th�nh, với tư c�ch l� những c� nh�n, đều phụ thuộc v�o t�m thức của ch�nh ch�ng ta. Bất cứ những g� thế giới n�y trở th�nh, đều t�y thuộc v�o t�m thức tập thể của mọi người.
 
Th�ng qua xu hướng � ch� của ch�ng ta, khả năng cấu th�nh của t�m thức, ch�ng ta c� thể thay đổi thế giới n�y trở th�nh một thế giới tốt hơn, thay đổi ch�nh ch�ng ta trở n�n những con người tốt hơn.
 
C� một c�u n�i trong Thiền t�ng rằng: �Sanh tử l� niết b�n, v� niết b�n từ trong sanh tử�. Thế giới n�y l� lu�n hồi sanh tử hay niết b�n đều ho�n to�n phụ thuộc v�o trạng th�i t�m thức của ch�ng ta. Nếu t�m ch�ng ta gi�c ngộ th� thế giới n�y l� cảnh giới niết b�n; nếu t�m ch�ng ta chưa gi�c ngộ th� thế giới n�y l� c�i lu�n hồi sanh tử, đầy khổ đau, lo �u v� bất hạnh.
 
C� một vị thiền sư đ� n�i, nước vốn c� một t�nh chất m� th�i, nhưng nếu một con b� uống nước v�o th� chuyển h�a th�nh sữa, trong khi một con rắn uống v�o th� biến th�nh chất độc.
 
Tương tự như vậy, cuộc đời n�y l� hạnh ph�c hay đau khổ đều t�y thuộc v�o trạng th�i t�m thức của ch�ng ta, chứ kh�ng phải t�y thuộc v�o thế giới. V� thế m� ch�ng ta phải t�m c�ch chuyển h�a t�m thức, phải để cho t�m đạt được trạng th�i tỉnh thức, v� điều n�y đ�i hỏi một niềm tin s�u sắc ngay từ l�c sơ khởi, tin v�o ch�nh m�nh v� tin v�o sức mạnh tiềm t�ng trong t�m ch�ng ta.
 
Nh�n tố thứ hai trong Thiền t�ng l� "đại nghi"
 
Phương ph�p của thiền rất khoa học. Trong khoa học, ch�ng ta được chỉ dạy rằng đừng bao giờ tin bất cứ một điều g� trừ khi điều đ� được chứng minh bằng thực nghiệm. Thiền cũng c� quan điểm như vậy. Ch�ng ta kh�ng tin tưởng bất cứ điều g� một c�ch m� qu�ng; đ�ng hơn l� bản th�n ch�ng ta phải chứng minh t�nh đ�ng đắn của n�.
 
Đức Phật dạy rằng, tất cả ch�ng sanh đều c� Phật t�nh. Nếu thế th� Phật t�nh ấy ở đ�u? Ch�nh ch�ng ta phải kh�m ph� điều đ� v� tiếp tục ho�i nghi cho đến khi n�o ch�ng ta kh�m ph� ra n� mới th�i. Kh�ng c� gi� trị g� cả nếu như ch�ng ta chỉ học những lời dạy của Đức Phật như một con vẹt. Ch�ng ta phải x�c chứng những lời dạy của Phật bằng c�ch t�m kiếm trong nội t�m của ch�ng ta cũng như kiếm t�m ở thế giới xung quanh ta.
 
V� thế m� ho�i nghi l� một phần rất quan trọng trong thiền tập. Một thiền sư, một gi�o vi�n hay một vị tu sĩ c� thể dạy nhiều thứ. Một v�i điều trong đ� ch�ng ta c� thể tin, c�n những điều kh�c c� thể ch�ng ta kh�ng tin. Những g� được chấp nhận hay từ chối l� t�y thuộc v�o sự nhận định của ch�ng ta. Ch�ng ta c� quyền đ�nh gi�; thật sự m� n�i th� tốt hơn hết l� tự m�nh đ�nh gi�.
 
Ch�ng ta đi theo những g� ch�ng ta cho l� tốt v� từ chối những g� ch�ng ta cho l� kh�ng tốt. Mặc d� thiền sư dạy những phương ph�p thực tập thiền cho c�c học tr� v� định hướng cho sự ph�t triển của họ, nhưng thiền sư kh�ng bao giờ xem ch�nh họ l� một h�nh giả đứng giữa Đức Phật v� con người hoặc l� giữa niết b�n v� sanh tử lu�n hồi.
 
Thiền sư xem những lời dạy, những phương ph�p của m�nh chỉ l� ng�n tay chỉ mặt trăng. Chỉ như ng�n tay d�ng để định hướng cho việc nh�n thấy mặt trăng, cho n�n những lời dạy của họ được sử dụng như l� sự dẫn dắt để thấy ch�n l�. V� một khi ch�ng ta thấy được mặt trăng rồi th� ch�ng ta kh�ng cần b�m theo chiều hướng của ng�n tay nữa. Đ�i khi vị thiền sư n�i đ�ng, nhưng đ�i khi vị ấy c� thể kh�ng đ�ng.
 
V� vậy ch�ng ta kh�ng n�n tin tưởng v� đi theo chiều hướng của vị ấy một c�ch m� qu�ng, h�y kiểm tra n� bằng ch�nh kiến thức v� kinh nghiệm của m�nh. Nếu n� tốt cho bản th�n ch�ng ta v� cho người kh�c th� ch�ng ta c� thể tin tưởng n�.
 
V� dụ, nếu một người kh�ng quen lắm với Los Angeles bị mất phương hướng, anh ta c� thể l�i xe v�o một trạm xăng v� hỏi nh�n vi�n c�y xăng l� l�m sao để đến được địa chỉ m� anh ta đang t�m kiếm. Đ�i khi người nh�n vi�n ấy đưa ra những hướng đi đ�ng, v� người ấy l�i xe đến đ�ng địa điểm cần t�m một c�ch dễ d�ng. Nhưng cũng c� đ�i khi người t�i xế được chỉ l� đi về hướng Đ�ng, trong khi đ� sự đ�nh gi� tốt hơn của anh ta n�i với anh ta rằng, anh n�n đi về ph�a T�y. Thế th� anh ta phải l�m g�? Anh ta c� n�n tin v�o người nh�n vi�n v� từ bỏ tất cả niềm tin v�o ch�nh m�nh? Hay l� anh ta kh�ng n�n l�m thế, m� h�y tin v�o sự nhận định tốt hơn của anh ta v� t�m ra những phương hướng đ�ng ở một nơi kh�c?
 
V� thế, nếu ch�ng ta t�m kiếm lời khuy�n của nh�n vi�n ở trạm xăng, ch�ng ta n�n chấp nhận lời khuy�n ấy k�m theo một ch�t ho�i nghi. Ch�ng ta n�n nhận diện khả năng rằng anh ta c� thể đ�ng hoặc anh ta c� thể sai.
 
Cho n�n yếu tố thứ hai tr�n suốt con đường thực tập thiền l� nghi vấn v� ho�i nghi mọi thứ cho đến khi ch�ng được kiểm chứng. Yếu tố thứ hai n�y rất hữu �ch. Tuy nhi�n th�i độ ho�i nghi qu� đ�ng lại cũng kh�ng tốt t� n�o cả. Nhưng cần phải c� th�i độ ho�i nghi. C� một th�i độ ho�i nghi được sinh ra từ quan điểm l� tr� hạn hẹp, từ chối tin tưởng v�o bất cứ điều g� v� cảm thấy vui đối với việc duy tr� một th�i độ ti�u cực.
 
V� c� một loại th�i độ ho�i nghi l�nh mạnh, đấy l� th�i độ ho�i nghi đưa ch�ng ta bước l�n những bậc cấp tr�n con đường dẫn đến sự hiểu biết s�u sắc hơn. Nếu ch�ng ta đi theo th�i độ ho�i nghi thứ nhất th� ch�ng ta sẽ ho�i nghi về ch�nh tiềm năng b�n trong của ch�ng ta, về khả năng th�nh Phật của ch�ng ta, cũng như hiệu quả của những sự thực tập được đưa ra để dẫn dắt ch�ng ta đến đ�ch. Loại ho�i nghi n�y chỉ dẫn đến một c�i đ�ch ti�u vong.
 
Nhưng nếu ch�ng ta đi theo loại ho�i nghi ph�ng kho�ng hơn, giữ cho t�m ch�ng ta lu�n cởi mở v� đ�nh gi� mọi thứ một c�ch c� ph� b�nh để rồi x�c định l� n� đ�ng hay sai, điều đ� quả thật rất hữu dụng. Chẳng hạn, khi một thiền sư n�i với một nh� t�m l� học rằng, tham thiền c� thể gi�p những người bị t�m bệnh hoặc bị căng thẳng, nh� t�m l� học ấy sẽ kh�ng vội tin những g� vị thiền sư n�i, �ng ta sẽ đặt c�u hỏi cho vấn đề đ�. �ng ta sẽ kiểm tra giả thuyết n�y v� thậm ch� l� d�ng c�c c�ng cụ để kiểm nghiệm. Chỉ sau khi lặp đi lặp lại việc kiểm tra, thử nghiệm, �ng ta mới đi đến kết luận.
 
Tương tự như vậy, khi ch�ng ta thực tập thiền, c�u hỏi ch�ng ta n�n đặt ra l�: tại sao t�i phải tọa thiền? Nếu t�i tiếp tục thực tập theo phương ph�p n�y th� t�i sẽ đạt được kết quả g�? Tiếp tục trả lời, hỏi v� thực h�nh. Một l�c sau, nếu ch�ng ta nhận thấy rằng tham thiền gi�p l�m chủ t�m, rằng tham thiền gi�p ch�ng ta hiểu bản th�n v� hiểu người kh�c nhiều hơn, rằng n� dẫn đến sự điềm tĩnh, l�ng khoan dung, niềm hạnh ph�c v� sự thanh b�nh th� ch�ng ta tiếp tục thực tập.
 
C�n nếu n� kh�ng đem đến lợi �ch g� th� ch�ng ta c� n�n tiếp tục thực tập kh�ng? C� lẽ những ph�p tu kh�c sẽ tốt hơn. V� thế ch�ng ta phải đặt nghi vấn v� ho�i nghi. Ch�nh những kinh s�ch về thiền cũng đ� dạy rằng: �Đại ngộ xuất ph�t từ đại nghi�.
 
Yếu tố cốt l�i thứ ba l� sự quyết t�m mạnh mẽ
 
Sau khi ch�ng ta đ� giải quyết xong những ho�i nghi của m�nh v� đ� sẵn s�ng để bắt đầu qu� tr�nh thực tập, ch�ng ta phải n�ng cao tinh thần quyết t�m. Ch�ng ta phải tạo ra sự ki�n định vững v�ng để tiến về ph�a trước v� tiếp tục thực tập d� cho bao nhi�u chướng ngại m� ch�ng ta c� thể gặp phải tr�n đường tu của m�nh.
 
Ch�ng ta phải ph�t nguyện kh�ng bao giờ từ bỏ, ngược lại c�n tinh tấn thực tập. Để ph�t triển sự quyết t�m mạnh mẽ, ch�ng ta phải ki�n nhẫn v� nghi�m khắc với ch�nh m�nh. Nếu thiếu những thứ n�y, khi ch�ng ta vấp phải những kh� khăn trong việc thực tập thiền, ch�ng ta sẽ nghi ngờ về khả năng đạt được sự gi�c ngộ của m�nh v� sẽ sớm từ bỏ. Do vậy, ch�ng ta kh�ng bao giờ đạt đến đ�ch của m�nh.
 
Ch�ng ta kh�ng được n�n n�ng về những th�nh quả của sự tu tập, bản th�n ch�ng ta phải nghi�m khắc để thực tập m� kh�ng c� sự mong cầu, cũng kh�ng dự ph�ng. Như Khổng Tử đ� n�i: �Kh�ng mong cầu sớm đạt được kết quả, cũng kh�ng tr�ng đợi những điều lợi nhỏ�. Nếu ai t�m kiếm những kết quả nhanh ch�ng, người ấy sẽ kh�ng đạt đến kết quả tuyệt đối. Nếu người n�o bị dẫn đi lạc đường bởi những lợi �ch nhỏ th� người đ� sẽ kh�ng bao giờ đạt được những thứ lớn lao.
 
N�i chung, đối với người phương T�y, thật kh� cho họ khi thực tập m� kh�ng hướng đến những kết quả ngay tức th�. Một vị thiền sư người Nhật đ� từng n�i: �Con đường học thiền kh�ng giống như con đường học vấn ở trong trường đại học. Ch�ng ta kh�ng x�c định một khoảng thời gian để luyện tập rồi sau đ� nhận văn bằng tốt nghiệp. Học thiền kh�ng phải l� vấn đề v�i th�ng, v�i năm m� l� suốt cuộc đời. C� thể bạn xem t�i như l� một vị thầy, nhưng t�i lại xem bản th�n t�i như l� một học vi�n v� thực tập mỗi ng�y�.
 
Hầu hết những người phương T�y lu�n sống trong sự vội v�ng. Khi đến với thiền, họ thực tập rất kh� khăn trong thời gian đầu, nhưng khi kh�ng đạt được những kết quả nhanh ch�ng th� họ lại từ bỏ. Cho n�n ch�ng ta kh�ng được mong chờ những con đường tắt. Nếu ch�ng ta tr�ng đợi những con đường tắt th� ch�ng ta sẽ kh�ng duy tr� được l�u.
 
Thiền trong Phật gi�o kh�ng hứa hẹn bất kỳ con đường tắt n�o cả. C�c con đường tắt c� thể đem đến những kết quả nhanh ch�ng, nhưng ch�ng kh�ng k�o d�i v� ch�ng cũng kh�ng c� ảnh hưởng l�u bền đối với đời sống của một người được. Trong thiền tập, ch�ng ta phải nghi�m khắc với ch�nh m�nh mỗi ng�y, thực tập v� n�ng dần từng bước chứ kh�ng từ bỏ giữa chừng.
 
Th�ng qua h�nh thiền, ch�ng ta kh�ng chỉ c� được những trải nghiệm đ�ch thực hơn m� c�n khiến cho những trải nghiệm ấy tồn tại l�u hơn với ch�ng ta. Ch�ng sẽ được h�a quyện v�o trong cuộc sống của ch�ng ta, tạo ra những thay đổi đ�ng kể theo chiều hướng ng�y c�ng tốt đẹp hơn, tiến dần đến sự thực chứng v� gi�c ngộ. V� điều quan trọng nhất l� những thay đổi n�y do ch�nh ch�ng ta tạo ra.
 
Chỉ c� một loại tốt nghiệp trong việc học thiền, đấy ch�nh l� đạt được sự gi�c ngộ tối thượng, th�nh Phật. Tuy nhi�n, d� trong ch�ng ta ai cũng c� Phật t�nh, nhưng th�nh Phật th� kh�ng phải dễ. Điều n�y kh�ng chỉ xảy ra đối với ch�ng ta m� đối với chư Phật cũng thế.
 
Ch�nh Đức Phật đ� n�i: �Tr�n vũ trụ n�y, kh�ng c� một điểm nhỏ như hạt cải n�o tr�n mặt đất n�y m� Ng�i chưa từng hy sinh t�nh mạng hoặc l� chưa từng bị ch�n v�i xương ở đấy�.
 
Thật kh� tưởng tượng kh�ng biết bao nhi�u kiếp Ng�i đ� t�i sinh trong vũ trụ n�y, trau dồi tr� tuệ v� đức hạnh để đạt được Phật quả. V� số lần, kh�ng chỉ trong qu� khứ m� cả trong đời hiện tại, Ng�i đ� d�nh trọn 6 năm để tu khổ hạnh v� 49 ng�y đ�m tọa thiền. Ng�i Bồ-đề Đạt-ma cũng đ� thực h�nh 9 năm sau khi đến Trung Quốc. Đối với vấn đề n�y, một số vị thiền sư khuy�n rằng, nếu t�m được xem như l� một c�i gương soi th� �h�y giữ cho n� lu�n được sạch sẽ, đừng để bụi b�m l�n n�.
 
N�i c�ch kh�c, c�c thiền sư khuy�n h�nh giả phải thực tập thiền mỗi ng�y, đừng bao giờ r�t ngắn, đừng bao giờ từ bỏ m� h�y tiếp tục.
 
Trong truyền thống của nh� thiền, đặc biệt l� trong đời sống ở thiền viện, người tu thường sắp xếp một khoảng thời gian nhất định cho việc thực tập thiền chuy�n s�u. Những khoảng thời gian n�y gọi l� �nhập thất�, c� thể l� 3 ng�y, một tuần, 3 tuần, 3 th�ng hoặc l�u hơn. Trong thời gian nhập thất, thiền sinh phải sắp xếp thời gian để tham vấn thiền sư, để n�i l�n những nghi vấn v� tr�nh b�y những điều m� thiền sinh hiểu hoặc l� những kết quả đạt được. Trong hầu hết c�c trường hợp, khi thiền sinh tr�nh b�y kiến giải của họ, c�c thiền sư đều trả lời: �Chưa được, cần phải thực tập nhiều hơn nữa�.
 
Thiền sư phải n�i như thế. Nếu như thiền sư t�n đồng, thế l� hết, kh�ng c�n g� th�m nữa. Họ phải n�i chưa đạt để khuyến kh�ch c�c thiền sinh thực tập. Nếu người n�o kh�ng hiểu về phương ph�p tu thiền, họ sẽ bị thất vọng v� từ bỏ, kh�ng bao giờ thực tập trở lại. Nhưng nếu thiền sinh hiểu r� lối gi�o dục n�y, họ sẽ kh�ng bị thất vọng, ngược lại c�n tiếp tục thực tập với quyết t�m mạnh mẽ hơn.
 
C�u trả lời �chưa được� m� thiền sư n�i với thiền sinh kh�ng c� � chối bỏ, m� l� một c�ch để khuyến kh�ch thiền sinh tiến về ph�a trước, cố gắng nhiều hơn nữa. Thiền sư kh�ng muốn học tr� của m�nh dừng lại trong sự h�i l�ng với những th�nh quả nhỏ b�, với t�m từ bi, họ muốn hướng dẫn cho người học tr� tr�n lộ tr�nh từ bến m� đến nơi bờ gi�c, từ trầm lu�n sanh tử đến niết b�n an vui.
 
V� thế, quyết t�m dũng m�nh l� rất quan trọng. H�nh thiền l� một qu� tr�nh l�u d�i trong suốt cuộc đời. Cũng giống như việc ch�ng ta h�t thở v� ăn uống mỗi ng�y, ch�ng ta phải thực tập thiền mỗi ng�y. Cả hai vấn đề h�t thở v� ăn uống đều rất quan trọng cho cuộc sống, v� h�nh thiền cũng vậy. Thiền định gi�p cho ch�ng ta giữ được sự c�n bằng trong cuộc sống, hiểu hơn về ch�nh m�nh, về bản chất của cuộc đời. Thiền tạo ra nền tảng vững chắc cho sự h�a hợp giữa ta v� người, giữa ta v� vũ trụ. V� thế, thiền kh�ng phải l� vấn đề trong một v�i ng�y, v�i tuần, v�i th�ng, v�i năm, m� l� vấn đề của cả cuộc đời m�nh.
 
Nếu ch�ng ta c� quyết t�m mạnh mẽ trong sự thực tập, kh�ng c�n ho�i nghi th� ch�ng ta sẽ đạt được kết quả cuối c�ng, trạng th�i gi�c ngộ, thực chứng với tr� tuệ si�u việt v� từ bi v� lượng.