MỘT TRIẾT GIA HỎI PHẬT
T�c giả Osho
Ng�y kia, c� một triết gia đến
hỏi Phật:
"Bạch Đức Thế T�n, kh�ng n�i, kh�ng phải l� kh�ng n�i, Ng�i c� thể cho con biết
sự thật kh�ng?"
Đức Phật im lặng.
�ng triết gia kia đảnh lễ Phật v� xưng t�n rằng: "Với �nh s�ng đại bi đại tr�
của Phật chiếu soi t�m con, con đ� đoạn trừ được m� vọng v� bước v�o ch�nh đạo."
�ng triết gia ra về rồi, ng�i A Nan b�n bạch Phật:
"Bạch Đức Thế T�n, triết nh�n kia đ� đạt tới những g�?"
Phật trả lời:
"Con chiến m� phi nhanh ngay cả dưới c�i b�ng của ngọn roi da!"
Rất hiếm khi c�c nh� triết học đến hỏi Phật. Nhưng một khi điều đ� xảy ra th�
đ�ng l� một cuộc c�ch mạng, một sự biến chuyển lớn trong l�ng triết học.
Tại sao c�c triết gia đến gặp Phật lại c� vẻ miễn cưỡng kh� khăn qu� như vậy?
Bởi v� triết học v� t�n gi�o l� hai vấn đề đối nghịch nhau, kh�c chiều hướng.
Triết học đặt nền tảng tr�n cơ sở suy tư nghiền ngẫm v� T�n gi�o th� đặt trọng
t�m niềm tin v�o ch�n l�.
Người suy tư lu�n dễ d�ng đặt nghi vấn về một vấn đề g� đ�; nhưng kh�ng thể tin
dễ d�ng v�o bất cứ c�i g�. Song người t�n gi�o, điều ti�n quyết cần c� l� niềm
tin vững chắc ki�n cố, kh�ng nghi ngờ. Triết gia sống bằng lập luận; nh� t�n
gi�o sống với T�nh Thương. L� g�ch v� T�nh Thương l� hai con đường song song như
đường rầy xe lửa, kh�ng bao giờ gặp nhau tại một trung điểm n�o cả. C� thể hai
con đường đ� rất gần nhau nhưng lu�n lu�n song song.
Bạn h�y đứng tại một trạm đường rầy xe lửa, h�y nh�n những đường rầy chạy thẳng
t�t đằng xa kia, bạn tưởng rằng d� con đường c� song song đi chăng nữa rồi cũng
phải gặp nhau ở tận cuối ch�n trời, phải kh�ng; nhưng kh�ng, đ� chỉ l� ảo gi�c
của bạn. Hai con đường song song kh�ng bao giờ gặp nhau. Đầu �c v� tr�i tim
kh�ng thể gặp nhau; l� tr� v� t�nh cảm, tri thức v� tr� tuệ, kh�ng thể n�o gặp
nhau. Bạn c� thể nhẩy một bước từ con đường n�y nhẩy sang con đường kia, từ đầu
�c nhẩy v�o tr�i tim, nhưng chỉ l� một c� nhẩy m� th�i, v� chấm dứt, kh�ng c� sự
tiếp nối đ�u.
Nếu bạn đặt nặng l� tr� � nghĩa l� bạn tin v�o sự lập luận, nghi ngờ. C� rất
nhiều triết gia vĩ đại, họ suy tư v� suy tư, họ ch�m đắm trong suy tư, rồi s�ng
tạo ra nhiều t�nh huống, hệ thống, ph�p lạ chữ nghĩa, thuật ngữ v.v... nhưng họ
thực kh�ng bao giờ s�t nhập hay tiến gần đến ch�n l� bằng những người ng�y thơ,
kh�ng biết một ch�t g� về triết học. Những người ng�y thơ đ�, c� thể kh�ng học
cao, kh�ng hiểu rộng bằng c�c triết gia, nhưng �t nhất ra họ cũng ch�n thật nh�n
nhận họ dở họ k�m n�n tự ng� của họ vắng b�ng, nhờ vậy họ đến với mọi người dễ
d�ng hơn, lắng nghe người kh�c dễ d�ng hơn, th�m nhập ch�n l� dễ d�ng hơn, gần
gũi Phật dễ d�ng hơn. C�n những hạng triết gia, v� tưởng rằng c�i g� ta cũng
biết hơn người, ta t�i giỏi hơn người n�n ki�u căng ngạo mạn, kh�ng cần t�m đến
người kh�c để học hỏi � song thực ra, họ c� hiểu biết g� đ�u.
Tại sao đối với những nh� l� g�ch, T�nh Thương đến với họ kh� khăn như vậy? �
bởi v� T�nh Thương cần một h�nh động can đảm, quyết đo�n, kh�ng chần chừ, do dự
hay nghi kỵ g� cả. Y�u l� tin, l� giao ph�, ngay cả sanh mạng m�nh, l� can đảm
h�nh động. C�n L� g�ch l� một t�n h�n nh�t, n� kh�ng bao giờ d�m đối diện với sự
kh�ng hiểu biết. N� lu�n n�i: "T�i phải biết r� trước đ�. Nếu l�nh vực đ�, việc
đ�, t�i biết r� r�ng rồi, t�i mới h�nh động."
L� g�ch kh�ng bao giờ d�m phi�u lưu. Đối với người l� g�ch th� họ sẽ cho những
con người sống với T�nh Y�u kia l� đ�m ngu xuẩn. "Anh đang l�m g� vậy? Anh đ�m
đầu đi tới trước m� kh�ng r� l� m�nh đang đi đ�u �? Trời ơi, sao ngu dại thế,
rời bỏ một nơi chốn an to�n, lợi lộc để phi�u lưu tới một nơi kh�ng nhất định,
kh�ng r� r�ng. N�y, đừng n�i với t�i l� anh th�ch như thế nh�. Anh bạn của t�i
ơi, đừng ngu dại đ�nh mất những g� m�nh đang c� để trở th�nh kẻ kh�ng nh�, kh�ng
t�i sản. Trước khi quyết định l�m g�, h�y suy nghĩ cho kỹ v� biết chắc l� m�nh
sẽ được lợi lộc g�?"
Đ�, người l� g�ch sẽ n�i với bạn như vậy. Phải biết chắc bậc thang kế tiếp rồi
mới d�m đặt ch�n l�n � thực ra nếu cứ lần d� như vậy th� c�n l�u lắm bạn mới đặt
ch�n l�n bậc thang kế tiếp.
T�i (t�c giả) c� nghe n�i lại như thế n�y: Ng�y kia, Mulla Nasruđin muốn học
bơi. �ng ta đến gặp người huấn luyện vi�n dậy bơi v� người n�y n�i: H�y đi với
t�i ra bờ s�ng tập bơi. Kh�ng kh� đ�u, đừng sợ, bọn trẻ con c�n tập được cơ m�!
Nhưng tai hại thay, khi Mulla đi tới gần bờ s�ng, �ng ta trượt t� một c� đau
điếng v� bờ s�ng đầy b�n trơn trợt. Ng� một c� điếng hồn, Mulla hoảng kinh bỏ
chạy, kh�ng d�m xuống s�ng nữa. Huấn luyện vi�n n�i: Tại sao �ng nh�t qu� vậy?
�ng chạy đi đ�u? Mulla n�i: Th�i th�i, trước hết �ng dạy t�i c�ch bơi ra l�m sao
đi, rồi sau đ� t�i sẽ xuống bơi. Nguy hiểm q�a! Nếu lỡ c� chuyện g� xảy ra, ai
l� người chịu tr�ch nhiệm đ�y? Th�i, để t�i học xong phương ph�p bơi lội đ� rồi
t�i sẽ xuống nước!
Ngộ nghĩnh q�a, phải kh�ng? L�m sao bạn c� thể học bơi được nếu bạn kh�ng chịu
xuống nước? V� thế, Mulla chẳng bao giờ biết bơi cả.
C�i nguy hại của l� g�ch l� thế đấy.. L� g�ch hay lập luận trở th�nh một nấm mồ
ch�n sống t�nh cảm ch�n thật của con người. N� kh�ng thể n�o đưa ta đến Sự Thật,
đến Ch�n L� Gi�c Ngộ được. N� giết chết sự hồn nhi�n trong trắng của t�m hồn ta;
n� tạo ra những nghi kỵ, do dự, lững lờ. C�n T�nh Thương trinh nguy�n kia dẫn
đường ta đến Ch�n Như Phật T�nh. Con người của T�nh Thưong quan t�m đến c�i g�
sẽ xảy ra cho ta, cho chủng t�nh của ta, l�m sao để hạt giống t�nh thương hướng
t�m hồn ta về tương lai rộng mở, về ph�a �nh mặt trời rực s�ng; c�n l� g�ch k�o
ta về vũng lầy nghi kỵ, băn khoăn. Đ� l� v� sao c�c triết gia rất kh� gặp Phật.
Họ quay t�m qu� khứ, truy cứu nguy�n nh�n; nhưng Phật dạy ta h�y an nhi�n tỉnh
thức trong từng ph�t gi�y hiện tại v� hướng bước tới tương lai. Bước ch�n của cả
hai c� thể giống nhau đều bước tới, nhưng hai hướng kh�c nhau ho�n to�n. Do đ�,
khi c� triết gia n�o đến thỉnh vấn Phật, đ� l� điều đ�ng ngạc nhi�n, cần ghi
nhớ. V� sao? V� khi c� triết gia n�o t�m tới Phật c� nghĩa l� tận c�ng th�m t�m,
�ng ta đ� cảm nhận sự thất bại của triết học, sự thất bại của l� g�ch. Suốt cả
một đời, �ng ta đ� đi t�m, đ� tranh luận, đ� hăng say bảo vệ lập luận của m�nh
v� tưởng rằng sẽ t�m ra ch�n l� qua những cuộc tranh luận b�n c�i đ�; nhưng nay
�ng ta đ� nhận ra sự thật, �ng ta đ� thất vọng v� sự bất lực của l� g�ch. Chỉ c�
người trong cuộc mới thấm th�a c�i m�i vị thất bại đắng cay, c�i đau đớn tận
c�ng của sự bất lực thảm hại đ�. Những người kh�c kh�ng t�i n�o hiểu nổi đ�u. Từ
tr�n cao rơi xuống thấp, c�i tự ng� trong người triết gia bỗng tan biến đ�u mất,
v� vị b�c học tri thức kia như đứa trẻ thơ chưa biết g�, qu� xuống dưới ch�n Đức
Phật, xin đươc dạy bảo.
C� hai loại v� minh: một loại l� Định t�nh V� Minh, c� nghĩa l� kh�ng hiểu biết
g�, kh� chuyển h�a; c�n loại kia l� Bất định t�nh V� Minh, c� nghĩa l� tự học
hỏi v� gi�c ngộ hoặc l� nhờ người kh�c khai ngộ cho v� chuyển h�a v� minh th�nh
tr� tuệ.
C� một triết gia đến hỏi Phật...
V�o thời Đức Phật c�n tại thế, c� rất nhiều triết gia, nhiều đạo ph�i, nhiều học
thuyết. Chưa c� một thời kỳ n�o lại c� q�a nhiều triết thuyết ra đời như thời
Đức Phật tại thế. Kh�ng phải chỉ ở Ấn m� c�n tr�n to�n thế giới. Ở Ấn, c� Đức
Phật, Mahavira, Prabuđha Katyayan, Ajit Keshakambal (một đại triết gia),
Makkhali Goshal (một nh� tr� thức lỗi lạc), Sanjay Vilethiputta v� c�n nhiều b�c
học nữa ở Bihar. Đương thời tại Hy Lạp, c� Heraclite, Socrates, Plato Aristotle,
ba vĩ nh�n s�ng tạo ra triết học T�y Phương. C�ng thời gian đ�, b�n Trung Hoa l�
Khổng Tử, L�o Tử, Trang Tử, Mạnh Tử. H�nh như đỉnh cao tr� tuệ của l�ai người tụ
hội cả lại ở phương Đ�ng.
Đ�ng ra chỉ c� ba nền văn h�a lớn: một l� Trung Hoa, hai l� Ấn v� ba l� Hy Lạp.
Ba nền văn h�a đ� l� ch�nh, ngo�i ra đều l� sản phẩm của ba nền văn h�a tư tưởng
đ�.
Xuất xứ của văn h�a T�y Phương bắt nguồn ở Athens, Hy Lạp. To�n bộ văn minh
Trung Hoa, một nền văn minh ho�n to�n kh�c biệt, nổi l�n từ tư tưởng đối nghịch
giữa Khổng Phu Tử v� L�o Tử; v� n�t tinh hoa si�u tuyệt triết học v� đạo học ở
Ấn sản sanh ra do Đức Phật, Mahavira; v� tất cả những b�c học vĩ nh�n đ� đều
hiện hữu trong c�ng một giai đoạn lịch sử nhất định.
C�c sử gia cho rằng Lịch sử di chuyển theo v�ng tr�n b�nh xe: c� những thời kỳ
kiến thức si�u việt tận đỉnh cao, c� l�c lại bị d�m xuống kh�ng ai mơ m�ng đến.
V� dụ như ở Ấn, trước v� đương thời Đức Phật tại thế, c� h�ng ng�n, h�ng triệu
người l� triết gia, đạo sĩ. Tư tưởng huyền b� si�u h�nh đạo học v� đường lối lập
luận triết học giao lưu nhau, bao tr�m l�n to�n xứ Ấn, tạo cho n� th�m vẻ tr�c
tuyệt. Tuy nhi�n, đỉnh cao tr� tuệ đ� gống như Kim Tự Th�p, đ�y th� rộng bằng v�
ch�p th� nhọn. C� nghi� l� d� c� h�ng triệu triết gia, đạo sĩ đi chăng nữa,
người đạt đạo cũng chẳng c� bao nhi�u. Thời đ�, duy chỉ c� Đức Phật l� bậc Đại
Gi�c Ngộ v� �nh s�ng gi�o l� của Ng�i c�n gieo rắc đến tận hơn hai thi�n ni�n kỷ
v� chắc chắn sẽ c�n m�i m�i.
Sự gi�c ngộ đạt đạo của Đức Phật kh�ng ai s�nh nổi. Người T�y Phương nghĩ rằng
họ l� người th�ng th�i tuyệt đỉnh, v� dụ như Sigmund Freud lập luận: "T�i cho
rằng nằm s�u dưới lớp tri thức l� si�u thức v� v� thức." Người T�y Phương cho
rằng đ� l� một kh�m ph� tuyệt diệu, một c�ch mạng lớn trong nền tư tưởng triết
học T�y Phương. Nhưng thực ra, Đức Phật đ� dạy: "Con người c� 8 thức � đ� l�
tiền ngũ thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, th�n) đệ lục thức (thức thứ 6 l� � thức), đệ
thất thức (thức thứ 7 l� Mạt Na), v� đệ b�t thức (T�ng thức); m� sau đ�, hai
luận sư đệ nhất l� Ng�i V� Trước v� Thế Th�n đ� s�ng lập ra hệ thống Duy Thức
học v� c�ng chặt chẽ v� khoa học.
"Ng�y kia, c� một triết gia đến hỏi Phật... "
H�y nhớ kỹ rằng Đức Phật ch�nh l� người b�c bỏ l� luận trừu tượng, phủ nhận si�u
h�nh học. Ng�i cho rằng tất cả những c�u hỏi triết học đều v� nghĩa, đi t�m c�i
kh�ng tưởng. B�y giờ ở phương T�y, Bertrand Russell, Wittgenstein l� người phản
kh�ng kịch liệt thuyết si�u h�nh, trừu tượng. V� thế, nếu bạn hỏi một c�u hỏi v�
nghĩa v� l�, một c�u hỏi triết học, Bertrand Russell cũng sẽ trả lời phải kh�ng
phải, c� kh�ng c�. Song Đức Phật th� kh�ng trả lời. Ng�i im lặng, v� c�u hỏi vốn
đ� v� nghĩa th� nếu trả lời lại c�ng phi l� v� nghĩa hơn. C�ch tốt nhất l� im
lặng. Cũng như c� người thắc mắc "Thế giới n�y bắt nguồn từ đ�u, ai s�ng tạo ra;
hay chết rồi linh hồn c�n hay mất; trước khi c� thế giới n�y, vũ trụ l� g� ra
sao v.v... v� v.v... " đều l� những c�u hỏi kh�ng lợi �ch thiết thực, Đức Phật
kh�ng nhất thiết phải giải đ�p. Ng�i đơn giản dạy rằng: "C� 4 ch�n l� chắc thật
m� ch�ng sanh cần hiểu r�: "đ� l� Sanh, L�o, Bịnh, Tử, ch�ng sanh chắc chắn phải
trải qua 4 chu kỳ Sanh L�o Bịnh Tử đ� v� vạn vật cũng phải trải qua 4 giai đoạn
Th�nh Trụ Hoại Kh�ng." Ngo�i ra, c�n c� 8 c�i khổ căn bản l� "Sanh khổ, L�o khổ,
Bịnh khổ, Tử khổ, Cầu Bất Đắc khổ, O�n Tắng Hội khổ, �i Biệt Ly khổ, Ngũ Ấm X�
Thịnh khổ... Đ�, đ� ch�nh l� những điều m� ch�ng sanh cần phải giải quyết, cần
phải đoạn trừ để được hạnh ph�c thật sự. Tại sao kh�ng lo trầm tư mặc tưởng tu
tập qu�n chiếu về những đề t�i n�y m� lại vẩn vơ đi t�m c�u trả lời về những c�u
hỏi trừu tượng si�u h�nh như Thượng Đế c� hay kh�ng c�? Tạo H�a l� ai? v.v.
"Ng�y kia, c� một triết gia đến hỏi Phật: "Kh�ng n�i cũng kh�ng phải l� kh�ng
n�i, xin Ng�i giảng cho con biết về Ch�n L�?"
�ng ta hỏi một điều kh�ng thể n�o l�m được; nhưng với một vị Phật, một bậc đại
gi�c ngộ, kh�ng c� điều g� m� kh�ng thể l�m được � v� chỉ c� Phật mới l�m được
c�i kh�ng thể l�m. C�i kh�ng thể sẽ biến th�nh c� thể. Ở đ�y, tất cả qui luật
b�nh thường của thế gian đều bị bẻ g�y.
C�u hỏi "Kh�ng n�i cũng kh�ng phải l� kh�ng n�i" đ� được n�u l�n nhiều lần rồi,
kh�ng phải đ�y l� lần đầu. Trước �ng triết gia n�y cũng đ� c� h�ng ng�n triết
gia học giả kh�c đến tham vấn Phật. Tuy nhi�n, Đức Phật kh�ng nhất thiết chỉ c�
một c�u trả lời. Ng�i kh�ng c� c�u trả lời nhất định. T�y theo căn cơ tr�nh độ,
t�nh huống, thời gian... m� Đức Phật t�y duy�n uyển chuyển trả lời hay kh�ng.
Xưa kia, c� người hỏi Phật: "Kh�ng n�i cũng kh�ng phải l� kh�ng n�i, Phật cho
con biết g� về ch�n l�?" Đức Phật trả lời: "Nếu �ng hỏi t�i nhưng kh�ng n�i cũng
kh�ng phải l� kh�ng n�i, t�i sẽ trả lời cho �ng. Nếu �ng kh�ng l�m được như thế,
�ng c�n đ�i hỏi mong cầu g� nữa? Vậy, h�y thực h�nh đi! H�y sẵn s�ng c�u n�i
nhưng kh�ng phải l� c�u n�i rồi h�y tới đ�y!"
Nhưng đối với �ng triết gia n�y, Đức Phật kh�ng trả lời như vậy; v� tư chất �ng
triết gia n�y kh�c với người kia. Cũng c�ng một c�u hỏi nhưng tư chất hai người
ho�n to�n kh�c nhau. Người trước hỏi Phật v� đặt nặng tr�n cơ sở ng�n từ chữ
nghĩa chứ kh�ng m�ng đến ch�n l�; người đ� c�n mang nặng h�nh trang ph�n t�ch l�
luận tr�n vai, chỉ muốn thỏa m�n tri thức cạn cợt bề mặt của m�nh; c�n �ng triết
gia n�y, c�u hỏi của �ng chứa đựng tổng thể con người �ng v� niềm khao kh�t t�m
ch�n l� giải tho�t. C�u hỏi đưa ra cho c� lệ, �ng triết gia muốn đ�o s�u v�o c�i
tiềm ẩn b�n trong sức sống mu�n lo�i, chứ kh�ng cần định danh những chữ nghĩa
chết cứng kh� cằn kia.
C�u hỏi "Kh�ng n�i cũng kh�ng phải l� kh�ng n�i" l� một c�u hỏi v� c�ng h�m x�c.
"Kh�ng n�i" th� quả l� dễ d�ng rồi, ta chỉ cần im lặng. Nhưng "kh�ng phải l�
kh�ng n�i" th� thật kh� l�ng. Im lặng cũng kh�ng phải l� im lặng th� thế n�o
đ�y?
Đ� ch�nh l� sự Im Lặng Tuyệt Đối của Đức Phật!
C� hai loại im lặng: "Khi ta im lặng kh�ng thốt l�n một �m thanh n�o cả, đ�
ch�nh l� sự im lặng kềm h�m, miễn cưỡng. Ta đ� n�n n�, kh�ng cho n� ph�t ra �m
thanh n�o m� th�i. Miệng ta kh�ng mở ra, m�i ta kh�ng mấp m�y, cổ họng ta kh�ng
ph�t ra �m thanh, lưỡi kh�ng bật ra tiếng, nhưng sự thực trong t�m ta, trong đầu
�c ta, chữ nghĩa quay cuồng, �m thanh nhẩy m�a. Ta chỉ kềm h�m đ� n�n ng�n từ
kh�ng cho n� ph�t ra tiếng. Đ� l� loại im lặng bề mặt, loại s�ng ngầm dưới mặt
đại dương phẳng lặng.
Loại im lặng thứ hai l� kh�ng c� ng�n từ ngo�i v� trong, kh�ng �m thanh, sững
sờ, chết đứng, bất động, kh�ng l�e l�n một tia chớp n�o. Loại im lặng thứ hai
n�y l� loại im lặng phản ứng trong trường hợp nguy hiểm chết người, bất ngờ,
vượt sức chiu. đựng, th�nh ra kh�ng kịp phản ứng. Tất cả cơ quan đầu n�o trong
một t�ch tắc ngưng hoạt động. Nhưng đ� cũng kh�ng phải l� sự im lặng của Đức
Phật. Sự im lặng của Đức Phật l� loại thứ ba, hay n�i đ�ng hơn l� kh�ng thuộc
loại n�o cả, si�u việt ra ngo�i sự xếp hạng tầm thường của thế tục.
Im Lặng của Đức Phật l� V� Ng�n, bặt dứt kh�i niệm ng�n từ, x�a sạch dấu vết
vọng tưởng, loạn niệm. Sự Im Lặng n�y kh�ng cần sử dụng một ch�t �p lực n�o để
kềm h�m đ� n�n, cũng kh�ng bị sức �p m�nh liệt n�o từ ngo�i đưa v�o. Im Lặng l�
im lặng, đơn giản vậy th�i. Sự Im Lặng n�y l� Trung Đạo; kh�ng ở cực đoan n�y l�
n�i, cũng kh�ng ở cực đoan kia l� kh�ng n�i. Sự Im Lặng của Đức Phật ở giữa,
kh�ng chống ph�, kh�ng gượng �p b�n n�o cả. B�nh thản, thong dong, tự tại, an
nhi�n, đến đến đi đi. Đ� l� con đường Như Lai, hạnh Như Lai, im lặng Như Lai.
V� dụ th�m thế n�y cho bạn dễ hiểu, khi bạn tọa thiền, bạn cần y�n lặng � nhưng
con bạn đang n� đ�a, cười kh�c kh�ch, xe hơi chạy ngo�i đường, c� ai đ� b�p c�i
inh ỏi v.v... Bạn cố im lặng tập trung nhưng tiếng động huy�n n�o đ� vẫn lọt v�o
tai khiến bạn bực bội kh� chịu. Đ�, sự im lặng bề mặt lu�n lu�n gặp luồng đối
kh�ng m�nh liệt trog t�m. V� sao? V� tự ng� của bạn vẫn c� mặt 24 tr�n 24. C�n
im lặng của Đức Phật l� sự vắng b�ng Tự Ng�. Tiếng trẻ con, tiếng động cơ, tiếng
c�i, tiếng nước v.v... vẫn c� đ� nhưng kh�ng t�c động ảnh hưởng g�. Ta vẫn l�
ta, �m thanh l� �m thanh.
"Nhạn độ h�n đ�m,
Nhạn q�a, nhi đ�m v� lưu ảnh,
Phong lai sơ tr�c,
Phong khứ, nhi tr�c bất lưu thinh."
(B�ng nhạn qua s�ng,
Nhạn bay đi, nước kh�ng giữ lại g�,
Gi� thổi qua rừng tr�c,
Gi� v�o qua, tr�c chẳng lưu lại ch�t �m thanh.)
Con chim �n bay qua d�ng s�ng, n� kh�ng cố t�nh phản chiếu b�ng n� xuống mặt
nước; v� d�ng s�ng cũng kh�ng cố � lưu giữ lại b�ng n�. Gi� thổi qua rừng tr�c,
gi� bay v�o qua, tr�c chẳng cố t�m giữ lại ch�t gi� thoảng n�o. Đấy, một khi tự
ng� vắng b�ng, tất cả chỉ l� "Kh�ng". Kh�ng trong C�, C� trong Kh�ng!
"Đức Phật im lặng � v� người triết gia c�i đầu đảnh lễ ch�n Phật, bạch rằng:
"Bạch Đức Thế T�n, với đại bi đại tr� của Ng�i, con đ� qu�t sạch v� minh v� bước
v�o ch�nh đạo."
Chuyện g� đ� xảy ra vậy? Tại sao �ng ta đảnh lễ Phật?
Đức Phật im lặng. Triết gia cũng im lặng. D�ng tư tưởng của cả hai đều bặt dứt.
Tự ng� cả hai đều mất dấu. Phật ở trong triết giạ. Triết gia ở trong Phật. Cả
hai ho� hợp nhau, tấu l�n bản nhạc "Ch�n Như" bất tuyệt. Một m� hai, hai m� một.
Một l� tất cả, tất cả l� một. Tiểu ng� ho� trong đại ng�. Đại ng� chan ho� l�n
vạn vật. Ta l� vũ trụ. Vũ trụ l� tạ Ngay l�c đ�, ph�p lạ xảy ra, b� mật của Như
Lai khai mở. Thực ra, c�nh cửa Ch�n L� nhiệm mầu vẫn lu�n mở rộng cho người hữu
duy�n, giống như c�nh hoa kia khai nhụy l�c nửa đ�m. Kh�ng một ai hay biết. C�nh
cửa, nụ hoa khai mở trong Im Lặng Tuyệt Đối. Nếu bạn đầy đủ ki�n nhẫn chờ đợi,
nụ hoa kia sẽ chia xẻ hương thơm ướp x�ng l�n bạn, mời đ�n bạn. Đ�a hồng Phật
t�nh nở trong bạn rồi đ�!
�ng triết gia ra về rồi, ng�i A Nan b�n bạch Phật:
"Bạch Đức Thế T�n, triết nh�n kia đ� đạt tới những cảnh giới n�o?"
C� đ�ng kh�ng, A Nan, thị giả của Phật, bậc đa văn đệ nhứt, lại kh�ng hiểu tại
sao triết gia kia đ�nh lễ Phật v� t�n th�n Ng�i, d� Phật kh�ng thốt l�n lời n�o
sao? A Nan kh�ng hiểu thật sao? Phải, ng�i A Nan kh�ng thể hiểu v� �ng l� người
chạy theo chữ nghĩa ng�n từ. Như c�i m�y th�u băng, Phật n�i ra lời n�o l� �ng
đều th�u lại hết kh�ng s�t một chữ. Đức Phật nhập diệt, A Nan tr�ng tuy�n lại
lời Phật dạy suốt 50 năm � h�ng ng�n trang l� bối được ghi ch�p, h�ng triệu
triệu chữ được tr�ng tuy�n lại kh�ng sơ s�t. A Nan l� người c� c�ng đức nhất
trong c�ng cuộc kết tập lại tam tạng kinh điển � nhưng A Nan vẫn thiếu s�t một
c�i g�. Đ� l� sự tu chứng, sự thể nhập.
Suốt 25 năm hầu Phật, A Nan chỉ lo khai triển tri thức, chạy theo chữ nghĩa m�
qu�n bẵng đi vun bồi hạt giống gi�c ngộ. Thế cho n�n A Nan đ� bị ng�i Ma Ha Ca
Diếp quở tr�ch: "Phải thể hiện tu chứng rồi mới cho tham dự Đại Hội Kết Tập Kinh
Điển." Thực ra, đ� chỉ l� sự thị hiện, một v� dụ điển h�nh cho người đời nay
ch�ng ta, đừng n�n m� qu�ng rong t�m chữ nghĩa, đuổi bắt tri thức; v� tri thức
l� đầu mối của nghi kỵ, ph�n biệt, do dự v.v. Phật đ� dạy trong t�m c�i nạn kh�
gặp được Phật, Ph�p, Tăng th� Tri thức l� một (b�c văn tất nan thị đạo). Th�ng
th�i q�a kh� gặp Phật, tri thức ph�n biệt đ� l� h�ng r�o ngăn trở con người tiến
v�o mảnh đất t�m linh, l� vật chắn cửa ch�n l�, l� c�y song g�i kh�a giải tho�t.
C�i học thức thế gian đ� chỉ giới hạn sức thăng h�a của t�m thần v� gi�p tự ng�
của bạn th�m b�nh trướng nguy hại. T�m nguyện của Phật l� gi�p ch�ng sanh tự thể
nghiệm, tự chứng, tự m�nh l� tia đạo nh�n ph�ng v�o thực tại, thay v� b�n su�ng
về phương ph�p hoặc đ�a với kh�i niệm. Phật gh�t mọi tr� triết l� ấy m� Ng�i gọi
l� kiến chấp hoặc ng�n thuyết, v� ch�ng kh�ng đưa ch�ng ta về đ�u hết, m� cũng
kh�ng đem đến kết quả thực tiễn n�o cho sinh hoạt t�m linh ( Thiền Luận cuả Dr.
Suzuki). Tuy nhi�n, bạn cũng đừng hiểu lầm lời Phật n�i rồi lại đ�m ra lười
biếng hoặc chấp kh�ng v� bu�ng bỏ kh�ng tu học g� cả. Phật dạy l� "đừng để bị
d�nh mắc, đừng để bị vướng kẹt v�o tri thức, trở th�nh n� lệ cho kh�i niệm ng�n
từ, chứ kh�ng phải n�i l� bu�ng bỏ tất cả, chấp kh�ng c� g� hết, kh�ng cần g�
hết." C� Kh�ng, Kh�ng C� � Sắc tức thị Kh�ng, Kh�ng tức thị Sắc, đ� mới đ�ng l�
ch�n tinh thần của người học Phật. (Ấy ấy, chớ hiểu lầm nh�; đ�y l� n�i tới hạng
đa văn đạt th�ng nghĩa l�, c�n hạng ph�m tăng v� ch�n tục như ch�ng ta đ�y th�
phải y theo căn bản, nương theo gi�o l� m� tu tập h�nh tr�, giữ giới, tri t�c
thiểu dục, sống đ�ng ch�nh ph�p, phạm hạnh thanh cao trước đ�; chứ đừng l�e
người bịp m�nh m� "Sắc tức thị Kh�ng, Kh�ng tức thị Sắc" rồi tha hồ lợi dụng
thi�n hạ. Bịnh n�y kh� chữa lắm đ� nghen!)
Tri thức ph�n biệt, triết học luận l� đ� che mờ A Nan, đ� che mờ ch�ng ta.
T�i (t�c giả) đ� thấy rất nhiều người ghi ch�p khi t�i giảng. T�i n�i v� họ ghi
ch�p. Họ ngồi trước mặt t�i nhưng t�m hồn họ ruỗi rong theo mớ ng�n từ t�i n�i.
Họ hụt mất t�i rồi; khi họ ghi ch�p được đoạn n�y th� đoạn kia đ� mất. Về nh�,
họ đọc lại v� cố t�m hiểu � nghĩa c�u văn, ng�n ngữ � nhưng chỉ l� một mớ chữ
l�ng th�ng hỗn độn. Cũng như c� nhiều người du lịch Hy M� Lạp Sơn; đến nơi, họ
vội v�ng lấy m�y quay phim, m�y chụp h�nh ra quay chụp đủ kiểu, đủ cảnh, mọi nơi
mọi g�c... N�i Hy M� Lạp Sơn h�ng vĩ sừng sững ở đ�, nhưng họ c� thấy g� đ�u,
chỉ c� m�y ảnh thấy m� th�i. Rồi về nh�, họ l�i album ra v� ngắm ngh�a trầm trồ.
C�i Thật đ� bị gạt bỏ qua một b�n v� thi�n hạ ngắm nh�n bản sao của n�. Nếu chỉ
ngắm Hy M� Lạp Sơn qua h�nh ảnh th� cần g� phải đi đến tận nơi? Những nhiếp ảnh
gia chuy�n nghiệp kh�ng giỏi hơn bạn �? Những bức ảnh họ chụp kh�ng như thật �?
Vậy bạn chỉ cần bỏ ra v�i đồng l� c� ngay bức ảnh Hy M� Lạp Sơn, tội g� tốn bao
nhi�u tiền đi đến tận nơi để chụp h�nh? Bạn c� thấy l� bạn đ� bỏ qu�n c�i Thật
để chạy theo c�i giả kh�ng?
H�y lắng nghe những g� t�i n�i. Đừng ghi ch�p. Đừng th�u băng. Kh�ng cần thiết
đ�u, v� rồi cũng quăng đi những g� t�i n�i. Nếu bạn hiểu thực sự những g� t�i
n�i, th� kh�ng cần ghi ch�p, những lời n�i của t�i n�i cũng theo bạn như m�i
hương. Kh�ng cần nhớ, kh�ng cần v�c ng�n từ chữ nghĩa tr�n vai, n� đ� l� một
phần trong cơ thể bạn, n� l� một phần của con người bạn rồi!
�ng triết gia kia đến thỉnh vấn Phật với t�m trạng kh�t khao cầu t�m ch�n l�.
�ng ta đ� đeo g�ng c�m chữ nghĩa suốt bao năm v� kh�ng ph�t gi�y n�o được Tự Do
thực sự cả. C�i danh tiếng l� một nh� b�c học th�ng th�i tự l�u đ� giam h�m �ng
ta trong ngục t� kh�i niệm v� ng�n thuyết, v� giờ đ�y �ng ta muốn tự do, muốn
trở về, muốn t�m lại ch�nh con người thật của m�nh.
Đức Phật im lặng, nh�n �ng ta với đ�i mắt tr�n đầy từ bị T�nh Thương cực thuần
của Ng�i chan h�a l�n �ng ta, chan h�a l�n vạn vật sanh linh. Triết nh�n kia
ngẩng đầu l�n nhắm mắt tận hưởng d�ng suối T�nh Thương ngọt ng�o đang thấm dần
tr�n từng thớ thịt l�n da, v� �ng ta cũng im lặng. �ng ta đ� thấm, đ� hiểu, đ�
nhận v� đang cất bước trở về chốn cũ xa xưa, nơi thanh b�nh hạnh ph�c.
Nhưng A Nan (hay ch�ng ta) vẫn chẳng l�nh hội được g�. Tại sao Phật kh�ng n�i
lời g� m� �ng triết gia kia lại ngộ đạo? Sự Im Lặng đ� c� t�nh chất quyền năng
g�, nhiệm mầu thế n�o khiến con người đa văn th�ng th�i kia quay ngược bước trở
về? A Nan b�n bạch Phật � v� c�u trả lời của Phật mới th�m th�y h�m x�c l�m sao!
"Con chiến m� phi nhanh ngay dưới b�ng ngọn roi da!"
Tr�n đời n�y c� 3 loại ngựa: loại thứ nhất rất cứng đầu cứng cổ, trừ phi bạn
phải đ�nh n�, th�c n� th� n� mới chiu. chạy, c�n kh�ng th� cứ � l� ra đ�. Bạn
quất n� một roi, n� đi một bước, quất hai roi n� đi hai bước, ngừng tay quất l�
ngừng bước. Gặp nhằm loại ngựa n�y th� bạn rất phiền n�o, mệt nhọc, tốn c�ng sức
dạy dỗ rất nhiều.
Loại ngựa thứ hai kh�ng cần phải quất nhưng phải đe dọa nạt nộ th� mới chiu. cất
bước.
C�n loại thứ ba th� kh�ng cần phải d�ng roi quất, cũng kh�ng cần phải nạt nộ đe
dọa g� cả, chỉ thấy b�ng ngọn roi th� n� đ� cất v� phi nhanh rồi.
Bạn c� hiểu ẩn dụ n�y kh�ng? Nếu chưa th� bạn cố gắng suy nghĩ v� đọc cho kỹ đi
nh�!
Đức Phật kh�ng l�m g� hết, kh�ng n�i g� hết. Đức Phật chỉ im lặng từ h�a � v�
trong sự Im Lặng tột c�ng, bức m�n v� minh đ� v�n mở. Con chiến m� triết gia kia
đ� phi v�o T�m Cảnh. Triết nh�n đ� "trở về qu� nh� v� lặng lẽ nghỉ ngơi."
Trở về l� trở về với trời đất, với mu�n sinh, với nguồn sống v� tận ở trong ta
v� ở ng�ai ta, trở về để như mọi người "thấy n�i l� n�i, thấy s�ng l� s�ng"; để
sống giản dị với đất trời bao la mu�n thuở m� v� v� minh n�n ta đ� lầm đường lạc
lối, đ� l�ng qu�n bao th�ng ng�y v� sư tự do tuyệt đối m� ta nhiệt th�nh t�m
kiếm vẫn c� đ� tự bao giờ. (chua th�m của người dịch: Thi h�o T� Đ�ng Pha, một
quan đại phu đời nh� Tống, diễn đạt � nghĩa ấy bằng mấy vần thơ sau:
" L� sơn y�n tỏa Chiết giang triều
Vị đ�o sanh b�nh hận bất ti�u
Đ�o đắc ho�n lai v� biệt sư.
L� sơn y�n tỏa Chiết giang triều "
"Kh�i ng�t non L� s�ng Chiết giang
Khi chưa đến được hận mu�n ng�n
Đến rồi h�a vẫn kh�ng g� kh�c
Kh�i ng�t non L� s�ng Chiết giang "
Ng�y kia c� �ng đạo hỏi Thiền Sư Mục Ch�u, một cao tăng ở hậu b�n thế kỷ thứ 9:
"Suốt ng�y mặc �o ăn cơm, l�m sao khỏi mặc �o ăn cơm?" Sư đ�p: "Mặc �o, ăn cơm"
Thầy kia trả lời kh�ng hiểu. Sư đ�p: "Kh�ng hiểu th� mặc �o ăn cơm."
Thiền lu�n lu�n tiếp xử với những c�i cụ thể như vậy, kh�ng th�ch suy luận mơ
hồ. Ch�ng ta đều l� hữu hạn hết, ta kh�ng thể n�o sống ngo�i kh�ng gian; bởi lẽ
ch�ng ta sanh ra từ tr�i đất n�n kh�ng thể đạt tới c�i v� hạn. L�m sao tho�t
ngo�i những giới hạn của cuộc sống? C� lẽ đ� l� � nghĩ của �ng đạo trong c�u hỏi
đầu đối lại. Sư Mục Ch�u đ�p: "Giải tho�t phải t�m ngay trong c�i hữu hạn; kh�ng
đ�u c� c�i v� hạn ngo�i những sự vật hữu hạn của thế gian; �ng đi t�m c�i v� hạn
n�o kh�c tức �ng cắt đứt với thế gian tương đối n�y, như thế kh�c n�o �ng tự hủy
�ng. �ng kh�ng muốn c� được sự giải tho�t trả gi� bằng cuộc sống thường tục n�y.
Vậy, th� l� cứ b�nh thường m� ăn v� uống, v� t�m giải tho�t ngay trong cảnh b�nh
thường ấy.)
Từ đời thuở n�o, con người vốn l� thanh tịnh, vốn l� kh�ng, n�n Phật dạy trở về
để m� nhập cuộc.
Nhập cuộc l� nhập v�o c�i trật tự tự nhi�n, kh�ng thỉ kh�ng chung của trời đất.
Trong trật tự ấy, ch�ng sanh l� một ph�p v� t�m n�n v� sự. Vi�n sỏi b�n đường l�
một ph�p v� sự n�n v� vị Mu�n ph�p đều v� vi m� b�nh đẳng nhau trong Ph�p giới
v� ngại: nước chảy, hoa tr�i, trăng l�n, gi� m�t. Mu�n vật đều v� ngại n�n tự
tại, kh�ng phải tự tại ở Niết B�n, kh�ng phải tự tại trong phiền n�o m� tự tại
trong Kh�ng. Trong trạng th�i Kh�ng ấy, những danh từ ph�m th�nh, phải tr�i,
tỉnh m�, đều mất nghĩa, tất cả đều l� đại đồng, ứng h�a từ một gi�c t�nh, n�n
Nhứt thiết kh�ng Niết B�n
Kh�ng c� Niết B�n Phật
Kh�ng c� Phật Niết B�n.
TẤT CẢ l� MỘT, MỘT l� TẤT CẢ.
Trăng Lăng Gi� tỏa s�ng tr�n đỉnh Linh Thứu Sơn!