KHÍ
CÔNG DƯỠNG SINH
I.
Khí công là ǵ?
"Khí"
người Trung Hoa phát âm là "Chi" hay "Qi",
"Ki" ở người Nhật Bản, "Ghee"
ở người Đại Hàn và "Prana" ở người
Ấn Độ. "Khí" nghĩa thông thường có
liên quan đến "Không khí" hoặc "Chất Hơi",
một chất không h́nh, dễ di động, dễ phân tán,
dễ tích tụ, tính co dăn có thể tạo nên sức ép
lớn mạnh, tùy theo số lượng của nó.
"Công"
do chữ "công phu", người Trung Hoa phát âm là
"Kungfu", có nghĩa là việc làm được
thực hiện trong một số lượng thời gian.
Do
đó, "khí công" có thể hiểu là một
tiến tŕnh hít thở không khí, để gia tăng
nguồn sinh lực của thể chất lẫn tinh
thần trong con người. Trong đó, "dưỡng khí"
(oxygen)được hấp thụ qua không khí, và "thán
khí" (carbon dioxide) được loại trừ ra ngoài
cơ thể. Đây là hai yếu tố chính yếu trong
việc gia tăng nguồn sinh lực cơ thể.
Trong
vơ thuật cổ truyền đông phương, khí công c̣n
được gọi là "nội công", một công
phu tập luyện "tán tụ nội khí", triển
khai tối đa sức mạnh thể chất lẫn tinh
thần, để áp dụng vào kỹ thuật chiến
đấu, cũng như gia tăng sức khỏe thân tâm.
II.
Lược Sử Khí Công:
Trong
ư nghĩa quân b́nh hơi thở, khí công được
bắt nguồn từ thuở xa xưa, từ khi có sự
hiện diên loài người trên quả đất này. Căn
cứ vào văn hóa cổ truyền đông phương,
khí công đă được áp dụng qua các phương
pháp thực hành, và triết lư dẫn đạo, hầu
hết, trong ba môn học: Y học, Đao học, và Vơ
học.
Theo
y như Hoàng Đế Nội Kinh (2697 – 2597 B.C. trước
Tây Lịch), và sách Dịch Kinh (2400 B.C. trước Tây
lịch), nền tảng Đông Y học được
dựa trên lư thuyết nguồn khí lực, Âm Dương
và Ngũ Hành để lư giải, điều trị
bệnh tật và tăng cường sức khỏe con người.
Vào
thời nhà Thương (1783 – 1122 B.C trước Tây
lịch), người Trung Hoa đă biết dùng những
dụng cụ bén nhọn bằng đá, để châm chích
vào các huyệt đạo trên cơ thể, nhằm gây
ảnh hưởng đến sự dẫn truyền
nguồn khí lực, trong việc trị bệnh cho con người.
Vào
thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, trong cổ
thư Đạo Đức Kinh, tác giả Lăo Tử,
một nhà hiền triết Trung Hoa, đă đề
cập đếnn vai tṛ hơi thở trong kỹ thuật
luyện khí, để giúp con người kéo dài tuổi
thọ. Sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng các
phương pháp luyện khí đă có nhiều tiến
bộ, vào thời Xuân Thu và Chiến Quốc (770 – 221 B.C.
trước Tây lịch). Sau đó, trong thời nhà Tần
đến nhà Hán (221 B.C. trước Tây lịch đến
220 A.C. sau Tây lịch), một số sách dạy luyện khí
công đă được biên soạn bởi nhiều v́ y
sư, thiền sư và đạo sĩ. Các phương
pháp truyền dạy tuy có khác nhau, nhưng vẫn có chung
những nguyên lư vận hành khí lực trong cơ thể.
Vào
thế kỷ thứ ba sau Tây lịch, nguyên lư về khí
lực đă được minh chứng hiệu quả
bởi y sư Hoa Đà, qua việc áp dụng kỹ
thuật châm cứu, để gây nên t́nh trạng tê mê
cho bệnh nhân, trong lúc giải phẫu. Cũng như, ông
đă sáng chế những động tác tập luyện
khí "Ngũ Cầm Hí", dựa theo tính chất và
động tác của 5 loại thú rừng như: Cọp,
Nai, Khỉ, Gấu và Chim.
Vào
năm 520 – 529 sau Tây lịch, tổ sư Bồ Đề
Đạt Ma, người Ấn Độ, tại Tung Sơn
Thiếu Lâm Tự, tỉnh Hồ Nam, ngài đă soạn ra
sách Dịch Cân Kinh, đ dạy các môn đồ phát
triển nguồn khí lực, tăng cường sức
khỏe trên đường tu đạo, cũng như, thân
thể được cường tráng, gia tăng sức
mạnh trong việc luyện vơ.
Về
sau, dựa vào nguyên lư khí lực này, các đệ tử
Thiếu Lâm đă sáng chế thêm những bài tập khí
công như: Bát Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến
Nội Công Quyền, Nội Công Ngũ H́nh Quyền...
Theo
truyền thuyết, vào triều đại nhà Tống (950
– 1279 sau T.L.), tại núi Vơ Đang, đạo sĩ Trương
Tam Phong sáng chế bài nội công luyện khí Thái Cực
Quyền, gồm những động tác giúp người
tập luyện cường kiện sức khỏe thân tâm.
Về
sau, có rất nhiều bài tập khí công được sáng
chế bởi nhiều vơ phái khác nhau. Dần dần, các
vơ phái nhỏ, ít người biết đến, đều
bị mai một, cùng với những phương pháp
truyền dạy bị lăng quên trong quá khứ. Đến
nay, một số ít các bài vơ luyện khí công c̣n
được ghi nhận qua một số tài liệu
hạn hẹp của Trung Hoa như: Dịch Cân Kinh, Bát
Đoạn Cẩm, Thiết Tuyến Nội Công Quyền,
Nội Công Ngũ H́nh Quyền, Thái Cực Quyền
thuộc ba hệ phái của Trần Gia, Dương Gia và
Vũ Gia, Bát Quái Quyền, H́nh Ư Quyền, Lục Hợp Bát
Pháp Quyền...
III.
Triết Lư Khí Công
A.
Vũ trụ quan
Theo
quan niệm Đông phương, khởi nguyên sự h́nh
thành của vũ trụ, vạn vật được
bắt nguồn từ một khối "Khí" đầu
tiên gọi là "Thái Cực", bành trướng vô cùng
tận. Sau tiến tŕnh nội tại, khối "Khí"
này được phân thành hai nhóm khí đối
nghịch nhau: "Khí Âm" và "Khí Dương",
được gọi là "Lưỡng Nghi". Hai nhóm
"Khí Âm" và "Khí Dương" này chạm vào
nhau, để sanh ra khí thứ ba, mà Lăo Tử gọi là
"Xung Khí". Từ đó, vũ trụ, vạn vật
được h́nh thành. Đạo đức Kinh có ghi:
"Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh
tam, tam sinh vạn vật, vạn vật phụ âm nhi băo dương,
xung khí dĩ vi ḥa." Học giả Trương Hoành
Cừ có nói:
"-
Khí tụ lại thành h́nh, khí tán đi h́nh loại, muôn
vật trở lại Thái Hư." Vạn vật
biến chuyển, thay đổi không ngừng theo định
luật phổ quát mà Kinh Dịch có ghi: "- Sinh, Trưởng,
Thâu, Tàng." Cũng như, Phật Giáo quan niệm:
"-Sinh, Trụ, Dị Diệt." Do đó, khí là
nguồn gốc, là sinh lực của vạn vật và vũ
trụ.
Hai
tính chất căn bản là Âm và Dương của khí
được quân b́nh, nằm trong ba loại khí tổng
quát: Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí.
Thiên
Khí đến từ vũ trụ thiên nhiên, với
lực sống động vĩ đại huyền
diệu, giúp cho đại vũ trụ thiên nhiên
được vận chuyển trong một trật tự
tuần hoàn. Thí dụ: Mặt trăng, mặt trời, thái
dương hệ, tất cả bầu trời không gian vô
tận...đều là những nguồn chứa thiên khí.
Thiên khí đóng một vai tṛ quan trọng, ảnh hưởng
lớn đến thời tiết, khí hậu và thiên tai.
Thí dụ như những hiện tượng gió thổi,
mưa rơi, băo tố, sấm sét...d xảy ra đều
nhằm mục đích tái tạo sự quân b́nh Âm Dương
trong thiên khí.
"Địa
Khí đến từ quả đất, cũng như
từ sự thấm những nhuần, hoặc ảnh hưởng
tác dụng của thiên khí trên quả đất. Địa
khí c̣n được sinh ra bởi từ trường
của quả đất, cũng như, hơi nóng
được phát ra từ trong ḷng đất. Những vùng
đất thường xảy ra núi lửa, hay những
đường rạn nứt trong ḷng đất, để
tạo nên những tai họa động đất, chính
làn nơi phát ra nguồn địa khí. Sự di chuyển
của địa khí được thể hiện qua các
hiện tượng như: đất cát di chuyển theo ḍng
nước lũ, để mang bồi đắp tạo nên
những nơi cồn đảo. Trái lại, những vùng
mất đất sẽ trở thành sông sâu, lớn
rộng. Mặt khác, trong lúc có nhiều mưa, mặt
đất trở nên đầy nước ngập
lụt. Trái lại, khi khí trời khô, nóng gắt, hạn
hán, mặt đất trở nên khô cằn, nứt
nẻ. Tất cả những hiện tượng nói trên
đều tạo nên sự thay đổi địa khí,
do bởi sự mất quân b́nh âm dương tính trong
địa khí.
"Nhân
Khí" là sinh lực con người.`con người là
một tiểu vũ trụ, nằm trong sự chi phối
của đại vũ trụ thiên nhiên. Do đó, nhân khí
phải chịu ảnh hưởng vào thiên khí và địa
khí.
B.
Nhân Sinh Quan
Con
người khi c̣n là thai nhi trong bụng mẹ, được
nuôi dưỡng bằng nguồn sinh lực (Nhân Khí)
của bà mẹ, qua đường cuống rốn thai
nhi. Sau khi chào đời, qua tiếng khóc đầu tiên, hài
nhi biết hít thở, hấp thụ nguồn Thiên Khí
từ bên ngoài. Nguồn thiên khí đầu tiên này, khi
được vào trong cơ thể hài nhi, biến thành
nguồn "Dinh Khí", và tác dụng làm nguồn sinh
lực (Nhân Khí) của bà mẹ săn có trong hài nhi, trở
thành "Vệ Khí" được thể hiện
bởi hai ḍng: khí nóng (Dương) và khí lạnh (Âm). Ḍng
khí nóng (Dương) chạy lên phần trên cơ thể
đến các bộ phận: tim gan, phổi và năo bộ
trong khi ḍng khí lạnh (Âm) chạy xuống phần dưới
cơ thể, đến các bộ phận: bụng dưới,
thận, sinh dục và hai chân. Tiếp theo, sự sinh
tồn của hài nhi cần phải được nuôi dưỡng
bởi nguồn Nhân Khí từ bên ngoài, do ảnh hưởng
của Thiên Khí và Địa Khí, qua môi trường không
khí trong sạch , nước uống và thực phẩm (đọn
vật và thực vật). Nguồn Nhân Khí (sinh lực) này
được lưu chuyển điều ḥa, trong
những đường ống ngang dọc của hệ
thống Kinh, Mạch, Lạc, Huyệt, để liên
hệ đến các tạng phủ (các bộ phân như:
Tim, phổi, bao tử, lá mía, ruột già, ruột non, gan,
thận, túi mật và bàng quang...)
Vớ
tuổi thọ tăng dần, các đường ống
dẫn khí lực này, càng ngày trở nên tŕ trệ,
yếu kém, trong việc cung cấp sinh lực (Nhân Khí) nuôi
dưỡng cơ thể, do đó, sức khỏe con người
dễ trở nên suy yếu, bệnh tật, nếu không
được bồi dưỡng đúng mức.
Để
tái tạo sức khỏe b́nh thường, việc khai thông
hệ thống kinh mạch , cũng như, quân b́nh Ân Dương
tính trong nguồn sinh lực (nhân khí) rất cần
thiết cho cơ thể con người. Ơû điểm
này, Đông Y Học đă áp dụng một trong những
trị liệu pháp như: dược phẩm (thuốn hóa
học ở các lá, thân và rễ cây), Châm cứu pháp, Án
ma pháp (thuật xoa bóp trên các kinh mạch, và ấn ép trên
các huyệt đạo), Khí công trị liệu (phương
pháp hô hấp) và tể dục dưỡng sinh (áp
dụng các động tác vận chuyển để đả
thông kinh mạch)...
Trong
phép dương sinh, người ta cần phải biết
sống ḥa hợp với luật thiên nhiên, để khia
thác tối đa lợi thế của Thiên Khí và Địa
Khí, trong việc giữ quân b́nh âm dương tính cho Nhân
Khí của con người. Từ đó, sức đề
kháng trong cơ thể được kiện toàn, sẵn
sàng tiêu trừ các mầm móng bệnh chứng, có thể
xảy ra cho con người.
Ngoài
ra, viện tập luyện khí công rất ích lợi, giúp
cho Nhân Khí được điều ḥa, làm chậm
sự thoái hóa của các tế báo trong cơ thể, cũng
như, điều hợp thuận lợi với Thiên Khí
và Địa Khí từ bên ngoài.
IV.Phương
Thế Thực Hành
Trong
khí công gồm có ba loại thở căn bản: thở sâu
(hay thở thấp, hoặc thở Đan Điền),
thở Ngực (hay thở trung b́nh) và thở cao. Để
thực tập các bài khí công, học viên có thể áp
dụng một trong ba tư thế chánh yếu như:
thế đứng, thế ngồi và thế nằm. Trong
mổi tư thế chánh này c̣n được chia ra kàm
nhiều tư thế phụ như sau:
Với
tư thế đứng c̣n có thế đứng tự
nhiên, thế đứng chân trước chân sau, và
thế đứng trung b́nh tấn (hai chân dang rộng ra
hai ben trái phải).
Với
tư thế ngồi gồm có tư thế ngồi tréo chân
như: ngồi Kiết Già, ngồi Bán Già, ngồi Xếp
Bằng (ngồi tréo tự nhiên) và ngồi quỳ
gối.
Với
tư thế nằm gồm có nằm thẳng người
với lưng tựa phía dưới.
Trong
các tư thế đứng, ngồi, và nằm, tư
thế đứng mang lại nhiều ích lợi hơn.
Cho nên, các tư thế đứng đă đă được
áp dụng tối đa trong các bài tập khí công của
quyền thuật gia. Sau đây là những ích lợi
của tư thế đứng:
-
Tư thế đứng rất thuận tiện, khi
tập ở những nơi công cộng,ngoài trời, nơi
có không khí trong lành như: công viên, đồng cỏ,
rừng cây, bờ hồ, bờ sông, bờ biển, và các
vùng ngoại ô....
-
Tư thế đứng c̣n giúp cho máu lưu thông dễ dàng
trong hệ thống tuần hoàn. Do đó, nguồn khí
lực dễ chuyển dẫn đến các bộ
phận trong khắp cơ thể.
-
Ngoài ra, tư thế đứng tránh được t́nh
trạng ru ngủ như ở hai tư thế ngồi và
nằm. Cho nên, học viên có đủ thời gian hoàn
tất việc tập luyện.
V.
Hiệu Quả Của Khí Công
Việc
tập luyện khí công có thể tạo ra những tác
động, ảnh hưởng tốt đẹp, giúp ích
cho chức năng sinh lư của các bộ phận trong cơ
thể như: bộ phận hô hấp, bộ phận tiêu
hóa, hệ thống tuần hoàn máu, và thần kinh
hệ,...Cũng như, tái tạo sự hoạt động
của nhiều triệu mao quản bị đ́nh trệ,
và làm chậm sự thoái hóa của các tế bào trong cơ
thể.
Trong
phép trị bệnh, việc áp dụng khí công đều
đặn, cùng với thói quen ẩm thực hợp phép
kiêng cử, cơ thể tái tạo sức khỏe b́nh thường
cho bệnh nhân về các chứng: áp huyết cao hay
thấp, bệnh tim, bệnh về đường máu,
bệnh suyễn, bệnh táo bón, bệnh tiêu hóa, bệnh
nhức đầu, bệnh nhứ mỏi khớp xương
và bắp thịt...
Ngoài
ra, việc tập luyện khí công c̣n giúp ích cho học viên
gia tăng sức mạnh tinh thần như: tập trung tư
tưởng, tính tự chủ, tự kiểm soát nội
tâm, tâm hồn thanh tịnh, và b́nh tĩnh để có
một đời sống t́nh cảm an ḥa, khắc
phục được những trở ngại bất thường
trong đời sống loạn hàng ngày. Để đạt
được thành quả trong lúc tập luyện khí công,
tùy theohoan cảnh, học viên nên tuân hành nghiêm chỉnh
theo một thời dụng biểu tập luyện đều
đặn hàng ngày, với những bài tập thích nghi,
từng bước một, tuần tự tiến hành.
Nếu vội vă, đốt giai đoạn tập
luyện, sức khỏe của học viên dễ bị
tổn thương. Cũng như, trong giai đoạn
đầu tiên tập khí công, học viên nên cẩn
thận tránh những khuyết điểm. Việc tập
luyện sai phép có thể tạo nên những biến
chứng, gây ảnh hưởng không tốt cho sức
khỏe, và làm trở ngại cho cơ thể trong việc
tập luyện.
HÔ
HẤP TRONG KHÍ CÔNG
·
Ư NIỆM VỀ KHÍ:
Đối
với người Tây phương, "Khí" được
hiểu bằng những danh từ như: Energy, Vital Energy,
Life Force, Bio-Force, Electromagnetism... Cũng như "Animal
Magnetism" ở Úc châu do Mesmer, "Odic Force" ở
Đức do Baronvon Reichenbach, "Orgone Energy" ở
Mỹ do Wilhelm Reich, "Bioplamsm" ở Nga Sô do Inyushin.
"Khí"
(Energy) tức là năng lực, năng lượng. Khí
thể hiện dưới nhiều h́nh thức khác nhau như
:Nhiệt năng, cơ năng, quang năng, điện năng,
hóa năng, năng lực tinh thần,...
Khí
và vật có sự liên hệ mật thiết với nhau.
Khí cấu tạo ra vật, và cùng kết hợp với
vật. Vật hoạt động sinh ra khí. Cũng như,
cơ quan có sự liên hệ mật thiết với cơ
năng. Cơ năng quyết định sự h́nh thành và
phát triển cơ quan. Cơ quan ssinh hoạt biến thành
cơ năng. Nhà khoa học Einstein đă giải thích
sự liên hệ giữa khí và vật bằng phương
tŕnh E = mc 2. năng lượng khí
bằng khối lượng nhân với b́nh phương
tốc độ ánh sáng. Năng lượng khí và
khối lượng vật chỉ là một, nhưng p hai
h́nh thức khác nhau. Khi khối lượng vật
chất bị phá hủy, kết quả sẽ sinh ra năng
lượng khí được tỏa ra.
Về
phương diện sinh lư, cơ thể con người là
một thể chất hóa hợp của những tế bào,
phân tử, nguyên tử khác nhau. Tùy theo những yếu
tố và điều kiện sống chung quanh (như:
thực phẩm, nước uống, không khí, thời
tiết, xă hội...), nguồn năng lực (khí) trong cơ
thể được gia tăng, hay bị suy giảm. Trong
đời sống hàng ngày, nguồn năng lực (Khí)
đóng một vai tṛ rất quan trọng, trong sự liên
quan mật thiết giữa cơ thể và tâm trí con người.
Cũng như, hơi thở qua việc hô hấp không khí
là một yếu tố quan trọng nhất, trong tiến
tŕnh phát sinh năng lực (Khí) con người. Qua
tiến tŕnh hô hấp không khí, dưỡng khí (oxygen)
trong không khí được gạn lọc như một
nhiên liệu căn bản, dùng đốt cháy thực
phẩm, để sinh ra năng lực (khí), thán khí (carbon
dioxide), và nước, theo phương tŕnh hoá học như
sau:
Food
+ Oxygen ® Energy + Carbon Dioxide + Water
(Đồ
ăn) + (Dưỡng khí) ® (Năng lực) + (Thán khí) + (Nước)
năng
lựv (khí) được sinh ra từ phản ứng hóa
học của dưỡng khí và đồ ăn,
được dùng bồi dưỡng, điều ḥa
nhiệm vụ năo bộ, và các bộ phận trong cơ
thể, cũng như, tạo nên một sức mạnh
chịu đựng, dẻo dai về thể chất
lẫn tinh thần. Để có nguồn năng lực (khí)
sung măn, trong đ̣i sống khỏe mạnh, ngoài hai
yếu tố cần thiết phải có như dưỡng
khí (Oxygen) (trong khí trong lành), và thức ăn tươi
tốt (đầy đủ chất dinh dưỡng), người
ta cần phải có thêm những yếu tố hỗ
trợ khác, không kém phần quan trọng như: nước
uống tinh khiết, ánh sáng mặt trời, nghỉ ngơi
tịnh dưỡng, tâm trí quân b́nh, và vận động
thể dục...
·
HÔ HẤP VÀ SỰ SỐNG:
Hô
hấp (hít thở) không khí đóng một vai tṛ quan
trọng nhất, trong sự sống con người. Do
đó, hô hấp là để sống, sống cần
phải hô hấp, v́ hô hấp tạo nên hơi thở, và
nguồn sinh lực (khí) trong con người. Nếu hơi
thở chấm dứt, tiếp theo, sự chết đến
ngay với con người.
Sau
một công việc mệt nhọc, hay một ngày lao tâm,
lao lực, người ta áp dụng một số phương
pháp hô hấp (hít thở) không khí đúng cách. Kết
quả nhận thấy cơ thể khỏe mạnh, tinh
thần tươi tỉnh. Sinh lực được
phục hồi, nhờ vào sự biến năng của dưỡng
khí (oxygen), được không khí mang vào cơ thể.
Hơi
thở của một người khỏe mạnh b́nh thường
được gọi là hơi thở tự nhiên, cần
phải hội đủ bốn đặc tính: yên
lặng, thanh thản, nhẹ nhàng, và điều ḥa. Hơi
thở của họ biểu lộ một cách dễ dàng,
nhẹ nhàng, liên tục, không cảm thấy mệt
mỏi, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều
kiện nào, kể cả việc ư thức về hơi
thở. Nói một cách khác, hoi thở khỏe mạnh
tự nhiên là hơi thở không dài, không ngắn, êm
đềm, và đều đặn. Khi đạt
được hơi thở như thế, người ta
cảm thấy nhận được sự khỏe
khoắn, nhẹ nhàng trong cơ thể, t́nh cảm an ḥa,
tinh thần b́nh tĩnh, trong một linhhồn minh mẩn.
Tuy
nhiên, đối với người bệnh hoạn,
sức khỏe yếu kém, hơi thở của học thường
có vẻ mệt nhọc, do sức cố gắng mà ra. Hơi
hít vào vô cùng ngắn, thở ra thường kéo dài, đôi
khi, ngược lại. Những người có hơi
thở mất b́nh thường như thế, thể
chất và tinh thần của họ trở nên yếu
đuối, đời sống t́nh cảm bất an, để
đưa đến những nỗi lo âu, buồn nản,
thiếu ư chí kiên nhẫn, trong công việc hàng ngày.
Tiếp tục như thế, trong một thời gian lâu dài.
Điều kiện sức khỏe thể chất lẫn
tinh thần của họ sẽ gặp nhiều khó khăn.
Do đó, hơi thở của những người này
cần được chăm sóc cẩn thận, trong lúc
tập luyện khí công. Dần dần, với thời
gian, khí công có thể giúp họ phục hồi được
hơi thở tự nhiên, khỏe mạnh b́nh thường.
Nhịp
độ thở trung b́nh của một người
khỏe mạnh b́nh thường là mười tám hơi
thở (ra vào) trong một phút. Trong tiến tŕnh tập
luyện khí công, thời gian cho mỗi hơi thở (ra vào)
càng lúc cần được kéo dài thêm. V́ vậy, khi
đến giai đoan tiến bộ, học viên nên
tập để nhịp độ thở trung b́nh
giảm xuống, nghĩa là giảm dần số lần
của hơi thở (ra vào) trong một phút.
Các
nhà thiền sư, đạo sĩ thường tập
giữ cho nhịp độ thở (ra vào) từ 5
xuống tới 2 hơi thở (ra vào) trong một phút.
Với tư thế ngồi thiền tịnh tâm, họ có
thể tập kéo dài trong 30 phút. Có hai cách thông thường
để giữ cho nhịp độ thở giảm
xuống như: tạo nên hơi thở nhẹ nhàng, hay
đưa hơi thở sâu xuống bụng dưới (đan
điền).
·
BỘ MÁY HÔ HẤP TRONG KHÍ CÔNG:
Đối
với học viên mới nhập môn khí công, điều
quan trong nhất là việc hiểu biết về sinh lư căn
bản của các bộ phận liên quan đế tiến
tŕnh hô hấp của con người như sau:
·
Nhiệm vụ của phổi:
Bộ
máy hô hấp của con người gồm có hai lá
phổi, và những bộ phận trung gian, để
dẫn không khí ra vào hai lá phổi như: mũi, miện,
yết hầu, thanh quản, khí quản và cuống
phổi. Hai lá phổi được nằm ở hai bên
đường trung tuyến trong lồng ngực, và ngăn
cách bởi quả tim. Lá phổi bên phải gồm có ba
thùy. Lá phổi bên trái có hai thùy.
Nơi
tận cùng của ống khí quản được
tiếp nối với hai cuống phổi lớn, và các
động mạch, để dẫn vào bên trong hai lá
phổi trái phải. Từ đó, hai cuống phổi
lớn và các động mạch, càng vào bên trong phổi,
càng được phân chia thành nhiều chùm nhánh nhỏ
dần, để dẫn đến tận cùng những túi
nhỏ chứa không khí (gọi là Khí bào).
Bên
trong mỗi lá phổi, được cấu tạo
bởi vô số, khoảng 600 triệu túi nhỏ chứa
không khí (Khí bào), chia thành hiều chùm khí bào, đi song
song với nhiều chùm mạch máu lớn nhỏ chằng
chịt. Phổi được cấu tạo bởi
những mô mềm xốp, co dăn và có nhiều lỗ h́nh
thức như một tổ ong. Mỗi túi nḥ khí bào
chứa đựng một phần không khí được
hít vào. Từ đó, dưỡng khí (oxygen) được
thấm xuyên qua thành của các phế mao quản. Sau đó,
máu hữu dụng hóa dưỡng khí (oxygen) và thải
trừ thán khí (carbon dioxide) cùng những chất cặn bă,
do máu góp nhặt được trong hệ thống.
Nếu thiếu sự hiện diện của máu, những
túi nhỏ khí bào sẽ bị thất thoát nguồn dưỡng
khí (oxygen), và được thay vào bằng thán khí (carbon
dioxide).
Thể
tích của hai lá phổi ở người trưởng thành,
trung b́nh chứa từ 4 đến 6 lít không khí, hoặc
tương đương với số lượng không
khí được chứa trong quả bóng rổ
(basketball). Nếu những mô tầng của hai lá phổi
được tráng mỏng ra trên mặt phẳng,
diện tích của nó có thể phủ lên một nửa
sân chơi quần vợt.
Bên
ngoài mỗi lá phổi được bao phủ bởi
mặt trong của màng phổi vững chắc. Mặt ngoài
của màng phổi này được dính vào thành trong
lồng ngực. Vùng ở giữa màng phổi là một
chất nước nhờn, để cho hai lá phổi di
chuyển linh động, trong lúc hít thở không khí.
·
Vai tṛ hoành cách mô:
Thân
người được chia làm hai phần: phần trên
là lồng ngực, phần dưới là bụng. Hai
phần này được ngăn cách bởi một
"Hoành Cách Mô" (một màng thịt gân có h́nh nón chóp
bầu). Sự co dăn của lồng ngực và hoành cách mô
đă đóng một vai tṛ chủ yếu trong tiến tŕnh
hít thở không khí.
Lồng
ngực chứa đựng hai lá phổi và tim, được
bao phủ bởi bộ xương sườn và xương
ức. Khi hít hơi vào, hai lá phối bắt đầu
nở lớn dần dần và gây nên sự kích thích các
bắp thịt liên tiếp giữa các xương sườn.
Chính các bắp thịt này tác dụng tạo nên sự di
động của bộ xương sườn, để
cho lồng ngực được căng phồng lên. Do
đó, bên trong lồng ngực có thêm một khoảng
trống đủ sức chứa thể tích gia tăng
của hai lá phổi. Đây là loại thở bằng
ngực (hay thở trung b́nh), không có sự ảnh hưởng
của hoành cách mô. Phần chủ yếu là sự dăn
nở lớn tối đa của lồng ngực, để
đạt được một số lượng dưỡng
khí (oxygen) lớn nhất, trong một thể tích không khí
tối đa ở vào vùng giữa của hai lá phổi.
Đối
với loại thở sâu (hay thở thấp, Đan Điền),
khi hít hơi vào, không khí không bị dừng lại ở
vùng giữa của hai lá phổi như nói trên, nhưng không
khí được đưa sâu xuống phần dưới
của hai lá phổi. Đồng thời tạo nên
một sức ép trên mặt chóp bầu của hoành cách mô,
khiếncho hoành cách mô bị đẩy thấp xuống
phía bụng dưới, khoảng 4 phân (centimeters). Động
tác này tạo nên một khoảng trống, giữa
mặt trên hoành cách mô và phía dưới của hai lá
phổi. Do đó, không khí gia tăng làm cho phần đáy
của hai lá phổi, dăn nở thêm xuống phía dưới.
Trong khi đó, tất cả những túi nhỏ khí bào,
ở vùng dưới hai lá phổi, phải hoạt động
tích cực, để có một sự dăn nở lớn
gia tăng tối đa. Được như thế, các túi
nhỏ khí bào mới đạt được một
thể tích tồn trữ không khí tối đa. Điều
này rất quan trọng, v́ cần phải có một số
lượng dưỡng khí (oxygen) tối đa, để
thay vào chỗ của số thán khí (carbon dioxide) cần
được loại bỏ ra ngoài, cũng như cần
một số dưỡng khí (oxygen) để dùng vào
việc tác dụng phản ứng biến thể trong
phổi.
Ngoài
ra, sức ép của hoành cách mô hướng xuống
bụng dưới, đă khiến cho một số máu dư
đang ứ đọng trong các nội tạng, và màng
ruột được ép dồn vào bên trong các tĩnh
mạch. Cũng như, tạo nên sự kích thích cho đôi
dây tah kinh thái dương, giúp cho tâm trí trở nên thanh
tịnh.
Không
khí được thổ ra là buớc sau cùng cần
thiết, trong tiến tŕnh hô hấp. Song song với không
khí được thở ra, hai lá phổi co thắt
nhỏ lại dần dần, cùng lúc với lồng
ngực hạ thấp xuống, v́ các bắp thịt
giữa bộ xương sườn giảm dần tính kích
thích, rồi trở lại b́nh thường. Do đó,
sức ép của hoành cách mô bị mất ảnh hưởng,
rồi hoành cách mô bật hướng lên, theo sức
đàn hồi tự nhiên. Đồng thời tạo nên
một sức đẩy hướng thượng, tác
động vào phần đáy của hai lá phổi, giúp
gia tăng sức ép từ dưới đáy phổi,
tống mạnh không khí dơ bẩn, c̣n ứ đọng
lại từ đáy phổi ra ngoài.
( sưu tầm từ "Khí Công Dưỡng Sinh" của Vũ
Đức Hiền Âu)