Có nhiều cách phân chia các loại mạch, tùy quan điểm của các tác giả hoặc các trường phái.Trong tài liệu này, để rộng đường tham khảo, chúmg tôi tŕnh bày các cách phân chia mạch theo các trường phái lớn để dễ nghiên cứu:
- Theo ‘Nội Kinh’ (được coi là cổ nhất): Sách ‘Y Nguyên’ ghi: “Tinh xác của phép chẩn mạch không ai hơn sách ‘Nội Kinh’. Nội Kinh lấy 8 mạch PHÙ, TRẦM, HOĂN, CẤP, ĐẠI, TIỂU, HOẠT, SÁC để biện về biểu, lư, hàn, nhiệt, hư, thực, thuận, nghịch (V́) mọi mạch Phù là bệnh ở dương, mọi mạch Trầm là bệnh ở âm, mọi mạch Cấp th́ phần nhiều hàn, mọi mạch Hoăn th́ phần nhiều nhiệt. Mạch Đại nhiều khí huyết, mạch Tiểu th́ khí huyết đều ít. Hoạt là dương khí thịnh, Sác là âm huyết bị thiếu. Tức là trong 8 mạch phân ra làm 3 mức tương phản nhau (như loại Phù, Trầm, Hoạt, Sác), nhiều ít (như loại hơi Phù, Phù nhiều, hơi Trầm, Trầm nhiều), huyền tuyệt (như loại thái quá đến cấp 3, cấp 4 hoặc bất cập chỉ 1 chí, 2 chí, mất hẳn... ) để xét bệnh tiến thoái, thuận nghịch, sống chết, lại không tinh và gọn hay sao?”
- Thiên ‘Bát Mạch Yếu Chỉ Vi Cương” trong Cảnh Nhạc Toàn Thư chia 28 mạch ra làm 8 loại mạch chính là Phù, Trầm, Tŕ, Tế, Sác, Đại, Đoản, Trường c̣n 20 mạch kia th́ quy nạp vào với 8 mạch chính này, gọi là kiêm mạch.
- Sách ‘Lục Mạch Cương Lĩnh’ của Hoạt Thọ lại lấy 6 mạch làm gốc: Phù, Trầm, Tŕ, Sác, Hoạt, Sáp theo bảng dưới đây:
· Trầm mà rất hữu lực, như đè vào da trống là mạch CÁCH.
· Phù mà vô lực, như lụa ngâm trong nước là mạch NHU.
· Phù, Trầm hữu lực, mạch chắc dưới tay là mạch THỰC.
· Phù, Trầm đều vô lực. nấp dưới tay thoang thoảng là HƯ.
· Phù, Trầm, Đại, giữa rỗng ngoài chắc như ống lá hành là mạch KHÂU.
· Trầm mà rất hữu lực, đè tay sát xương mới thấy là PHỤC.
· Trầm mà rất hữu lực, ở giữa khoảng Trầm và Phù là mạch LAO.
· Trầm mà rất vô lực, t́m kỹ mới thấy được là mạch NHƯỢC.
· 1 hơi thở 4 lần là mạch HOĂN.
· Mạch Sác ở bộ quan, không có đầu đuôi là mạch ĐỘNG.
· Mạch Sác, thường đứng dừng lại rồi lại đi là mạch XÚC.
· 7 - 8 lần đến là mạch TẬT.
· Khi Tŕ, khi Sác, đứng lại có số nhất định là mạch ĐẠI (Đợi).
· Đến không đều số, đè tay thấy Phù mà tán loạn là TÁN.
· Mạch Hoăn mà có khi đứng lại là mạch KẾT.
· Như đè tay vào dây đàn là mạch HUYỀN.
· Đi lại như xoắn dây là mạch KHẨN.
· Không to không nhỏ như vót cần câu dài là mạch TRƯỜNG.
· Đến thịnh đi suy, đến to đi dài là mạch HỒNG.
· Như h́nh hột đậu, đụng tay vào xuống ngay là mạch ĐOẢN.
· Rất nhỏ mà mềm, ấn tay vào muốn tuyệt là mạch VI.
· Như mạch Vi mà rơ hơn là mạch TẾ.
- Lư Sĩ Tài trong thiên ‘Tứ Mạch Cương Lĩnh’ lại chỉ quy về 4 mạch chính, gọi là Tứ Đại Mạch: Phù, Trầm, Tŕ, Sác.
- Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ lại chia mạch ra làm 6 loại gồm:
+ Loại mạch Phù (có 6 mạch): Phù, Hồng, Nhu, Tán, Khâu, Cách.
+ Loại mạch Trầm (có 5 mạch): Trầm, Phục, Nhược, Lao, Huyền.
+ Loại mạch Sác (4 mạch): Sác, Xúc, Tật, Động.
+ Loại mạch Tŕ (4 mạch): Tŕ, Hoăn, Sáp, Kết.
+ Loại mạch Hư (5 mạch): Hư, Tế, Vi, Đại (Đợi), Đoản.
+ Loại mạch Thực (4 mạch): Thực, Hoạt, Khẩn, Trường.
- Lê Hữu Trác trong tập ‘Y Gia Quan Miện’ (HTYTT. Lĩnh) lại chia mạch theo ÂM DƯƠNG:
+ Nhóm Dương: có 7 mạch: Phù, Hồng, Hoạt, Thực, Huyền, Khẩn, Hồng gọi là THẤT BIỂU MẠCH.
+ Nhóm Âm: có 8 mạch: Vi, Trầm, Tŕ, Hoăn, Sắc, Phục, Nhu và Nhược gọi là BÁT LƯ MẠCH.
Nhóm c̣n lại gọi là CỬU ĐẠO MẠCH (9 mạch) gồm: Trường, Đoản, Hư, Kết, Đại (Đợi), Xúc, Tán, Động, Tế