Hư là không Thực, nghĩa là ở giữa bất túc,nhược mà không lực, vì vậy gọi là Hư. Mạch Đại như cũ mà không cứng là hư
Mạch Hư là tổng hợp 4 mạch , ấn vào không thấy, Phù,Trì, Đại mà Nhuyễn, đè tay xuống, nhấc tay lên đều thấy trống không .
Mạch Hư, 3 bộ mạch ấn nhẹ tay thì vô lực, ấn nặng tay thì mất.
HÌNH VẼ BIỂU DIỄN MẠCH HƯ
- Sách ‘Mạch Chẩn’ biểu diễn hình vẽ mạch Hư như sau:
Khí không đủ để khua động huyết thì mạch đến vô lực (hư)- Huyết không đủ để nuôi dương khí thì mạch cũng Hư.
Do khí hư không vận chuyển được huyết, mạch khí hư, huyết hư không thúc đẩy được huyết mạch, cho nên ấn tay xuống thấy trống rỗng. Do khí hư không thu liễm được nên mạch khí tràn ra ngoài. Huyết hư, khí không phù trợ được nên phù ra ngoài, vì vậy bắt mạch thấy lớn mà nhuyễn.
Mạch của Can và Thận đều Hư thì chết
Mạch Thực thì huyết thực, mạch Hư thì huyết hư, đó là lẽ thường. Trái nghịch như trên là bệnh.
Mạch Hư mà cơ thể sốt đó là do thương thử - Mạch ở bộ xích và thốn đều Hư, nóng không bớt thì chết.
Mạch ở thốn khẩu Hư ắt sinh hàn ở Tỳ Vị, gây ra ăn không tiêu.
Mạch Hư là cơ thể sốt (do thương thử ), trống ngực hồi hộp, tự ra mồ hôi, phát nóng, âm hư. Mạch bộ thốn Hư là huyết không nuôi Tâm - Bộ quan Hư là bụng trướng, ăn không tiêu - Bộ xích Hư là nóng âm ỉ ở trong xương, chân tê bại, tinh huyết bị tổn thương”.
Mạch Hư chủ chính khí hư, không lực.huyết hư, thương thử,khí huyết đều hư
Phù chẩn thấy mạch Hư là huyết hư, trầm chẩn thấy mạch Hư là khí hư.
Trẻ nhỏ thấy mạch Hư là có kinh phong, người mạnh khỏe có mạch Hư là bị thương thử.
Mạch Hư chủ khí và huyết đều hư, phế nuy, thương thử, mồ hôi ra nhiều, hồi hộp, chân mềm, ăn không tiêu.
Tả Thốn HƯ Hồi hộp. |
Hữu Thốn HƯ Khí suy, tự ra mồ hôi. |
Tả Quan HƯ Huyết không nuôi gân. |
Hữu Quán HƯ Hư trướng, ăn không tiêu. |
Tả Xích HƯ Thắt lưng đau, đầu gối tê bại. |
Hữu Xích HƯ Dương suy hoặc trầm hàn. |
Bệnh do phong thì mạch phải Phù Hư.
Đàn ông bình thường mà thấy mạch cực Hư là bị hư lao. Đàn ông mà mạch lại Hư, Trầm, Huyền, không nóng lạnh... là do hư lao gây ra. Đàn ông bình thường mà mạch Tế, Nhược, Vi thì thường ra mồ hôi trộm.
Mạch Sác, Hư là chứng phế nuy.
Mạch chân tạng của Phế hiện ra thì Phù mà phải Hư, ấn tay xuống thấy mềm rỗng như cọng hành, ở dưới không có gốc thì chết.
-Mạch Hoạt mà thịnh là bệnh đang tiến,- Mạch Hư mà Tế là bệnh đã lâu ngày.
· Mạch Hư mà Phù là khí hư.
· Hư mà Sáp là huyết hư .
· Hư mà Sác là âm hư, phế nuy.
· Hư mà Trì là dương hư .
· Hư mà Nhuyễn là mồ hôi tự ra.
· Hư mà Tiểu là chân đau, tê bại .