Ô RÔ
( ACANTHUS ILICIFOLIUS )
Mô tả cây : Cây thảo cao 0,5 -1,5m, thân tròn màu xanh, có nhiều rảnh dọc. Lá mọc đối, sát thân, hầu như không cuống, phiến cứng, mép lượng sóng, có răng cưa không đều và có gai nhọn. Hoa màu xanh lam hay trắng, xếp 4 dây thành bông. Quả nang dạng bầu dục, màu nâu bông, có 4 hạt dẹp, có vỏ trắng trắng và xớp.
Thành phần hoá học : Trong cây có chứa alcaloit, trong vỏ có chứa tanin. Từ năm 1981, người ta đã tách từ rể được một triterpenoidal saponin. Lá chứa nhiều chất nhờn.
Tính vị, tác dụng : Rể có vi mặn, chua, hơi đắng, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm và làm long đờm. Cây có vị hơi mặn, tính mát, có tác dụng làm tan máu ứ, tiêu sưng, giảm đau, hạ khí.
Công dụng : Toàn cây thường dùng làm thuốc hưng phấn, trị đau lưng nhúc mỏi, tê bại, ho đờm, hen suyễn. Rễ và lá còn được dùng trị thuỷ thũng, đái buốt, đái dắt, chữa thấp khớp. Nhân dân Cà Mau vẩn dùng nước nấu của đọt ô rô với vỏ quả hay lá quao để tri đau gan. Lá và rể cũng dùng để ăn trầu, đánh cho nước trong và cũng dùng trị bệnh đường ruột. Ở Trung Quốc rể dùng trị bệnh viêm gan, gan lách sưng to, bệnh hạch bạch huyết, hen suyễn, đau dạ dày, u ác tính. liều dùng 30-60g.