BỔ TẢ

a. Đại cương

Bổ tả là thủ thuật áp dụng khi châm để nâng cao hơn nữa hiệu quả của châm khi châm đă đắc khí.

b- Cơ Sở Lư Luận Của Bổ Tả

- Theo YHHĐ: Khi bàn về cơ năng linh hoạt của hệ thần kinh, Widenski chứng minh rằng: 1 kích thích nhẹ sẽ gây một hưng phấn nhẹ, một kích thích mạnh liên tục sẽ gây trạng thái ức chế trong toàn thân. Như vậy, nếu người bệnh đang ở trong trạng thái ức chế (hư chứng, cơ thể suy yếu...) dùng cường độ nhẹ sẽ gây hưng phấn kích thích. Ngược lại, nếu người bệnh đang ở trạng thái hưng phấn (thực chứng, tà khí thịnh) dùng cường độ mạnh và liên tục (tả pháp) sẽ gây ra hiện tượng ức chế.

- Theo YHCT: Nguyên nhân gây bệnh có thể do Tà Khí Thịnh hoặc do Chính Khí Suy.

Khi cơ thể có bệnh:

+ Do Tà khí bên ngoài quá mạnh: dùng Tả Pháp để đưa tà khí ra ngoài. Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Khi tà khí bị tích tàng lâu ngày th́ phải trừ đi. Khi tà khí thắng phải áp dụng phép châm hư [tả ]”. (LKhu.1, 30).

+ Thiên ‘Tiểu Châm Giải’ ghi: “Lúc châm tả, cảm thấy như đang mất một cái ǵ đó” (LKhu. 3, 36).

+ Do Chính khí suy, dùng Bổ Pháp để nâng cao chính khí (sức để kháng của cơ thể).

- Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ ghi: “Phàm khi dùng châm Hư th́ áp dụng phép châm Thực (Bổ)”. (LKhu.1, 29).

Như vậy, theo thiên ‘Căn Kết’ th́: “Hữu dư th́ châm Tả, Bất túc th́ châm Bổ” (LKhu.5, 72).

c- Áp dụng Bổ Tả

Vấn đề chủ yếu là cần biết khi nào nên áp dụng Bổ và khi nào cần Tả .

+ Thiên ‘Căn Kết’ ghi: “Cho nên nói rằng: trong phép châm mà không biết lẽ nghịch thuận (bổ tả ) th́ chân khí và tà khí sẽ đánh nhau. Khí măn (thực) mà châm bổ th́, khí Âm dương sẽ tràn ngập ra tứ chi, Trường và Vị khí sẽ xung ra da, Can và Phế sẽ trướng bên trong, Âm và Dương khí sẽ lẫn vào nhau. Khi hư mà châm tả sẽ làm cho kinh mạch bị hư, huyết khí bị khô kiệt, Trường và Vị khí bị tích tụ, b́ phu bị mong manh, lông và tấu lư bị héo nhăn, gần đến chỗ chết rồi vậy....” (L.Khu 5, 78-79).

+ Thiên ‘Cửu Châm Thập Nhị Nguyên’ c̣n nhấn mạnh hơn: “Biết được con đường văng lai của khí th́ sẽ biết được lúc nào có thể thủ huyệt để châm. Thực là tối tăm thay cho những kẻ không biết được (sự vi diệu của cơ). Thực khéo léo thay người nào hiểu rơ châm ư. Khí văng gọị là nghịch, khí lại gọi là thuận. Biết được sự nghịch thuận th́ sẽ thực hành việc châm bằng con đường chính đạo, không c̣n ǵ thắc mắc nữa” (LKhu 1, 20-24).

Cách chung: Hư tắc bổ, Thực tắc tả (Hư th́ dùng phương pháp bổ, Thực th́ dùng phương pháp tả).

Tóm kết, những phương pháp bổ tả đă được mô tả trong kinh điển, có thể thu gọn lại như sau:

Tính Chất

BỔ

TẢ

Cường độ

Vê kim ít

Vê kim nhiều lần

Hô hấp

Thở ra: Châm

Thở vào: rút kim

Thở vào: châm

Thở ra: rút kim

Theo kinh

Thuận chiều

Ngược chiều kinh

Tốc độ

Châm vào từ từ

Rút kim nhanh

Châm nhanh

Rút kim chậm.

Đóng mở

Khi rút kim: bịt chặt nơi châm

Khi rút kim: Không bịt nơi châm

Thời Gian

Lưu kim lâu

Không lưu kim lâu

Chất Kim

Kim vàng

Kim Bạc

Nói chung, về cách thức Bổ Tả, có thể nhận xét như sau:

* Hư là t́nh trạng dưới mức b́nh thường, cần nâng lên.

* Thực là hoạt động trên mức b́nh thường cần làm gia?m xuống.

Như vậy, xét về mục đích, đây là sự điều chỉnh về lượng kích thích. Dù có nhiều cách thức Bổ Tả khác nhau nhưng mục đích chỉ có một. Do đó, tùy theo hiện trạng lâm sàng, có thể chọn lựa cách thức Bổ Tả nào cho tiện và thích hợp cũng được.

Để kết luận về phương pháp Bổ Tả, xin mượn lời của thiên ‘Ly Hợp Chân Tà Luận’: “Cho nên nói rằng, chờ đợi tà khí mà không thẩm đoán, đợi cho lúc tà khí đă đi qua mà châm tả th́ chân khí bị thoát, chân khí bị thoát th́ không thể phục hồi. Tà khí sẽ trở lại th́ bệnh càng súc tích hơn. Cho nên nói rằng, khi tà khí đi qua th́ không nên rượt theo (kỳ văng bất khả truy). Không thể sơ sót dù chỉ bằng sợi tóc, phải đợi tà khí đến đúng th́ mới được phát châm để tả ” (T. Vấn 27, 18).

Và thiên ‘Tà Khí Tạng Phủ Bệnh H́nh’ nhấn mạnh: “Phép Bổ Tả mà áp dụng nghịch nhau th́ bệnh sẽ càng nặng” (LKhu.4, 122).

Như vậy, thầy thuốc phải thật tinh tường, nắm chắc vấn đề bổ tả để khỏi gây nguy hại cho người bệnh”.