I- BỆNH LƯ

1- SỰ XÂM NHẬP CỦA TÀ KHÍ VÀO KINH LẠC

Trong việc chẩn đoán và trị liệu, cần nắm vững sự diễn biến của bệnh lư, từ lúc tà khí mới bắt đầu xâm nhập vào phía ngoài cơ thể cho đến khi chuyển vào phía trong nội tạng. Hiểu rơ được con đường và tiến tŕnh xâm nhập của tà khí sẽ giúp chúng ta chẩn đoán rơ là tà khí đang ở phần nào trong cơ thể, ở Kinh hoặc ở Lạc mạch, ở kinh Cân hoặc ở kinh Biệt...từ đó mới xác định được phương pháp điều trị.

Thiên ‘B́ Bộ Luận’ ghi: “ Trăm bệnh khi mới phát sinh đều từ b́ mao vào trước. Tà khí trúng vào th́ tấu lư mở ra, tấu lư mở ra th́ vào Lạc mạch, nếu tà khí cứ ở đó, không được trừ đi th́ nó sẽ truyền vào Kinh. Tà khí ở Kinh mà trừ không hết nó sẽ nhập vào Phủ và ở tại Trường Vị” (TVấn 56, 9).

Thiên ‘Điều Kinh Luận’ ghi: “ Phong vũ làm tổn thương con người, trước ‘khách’ ở b́ phu, rồi truyền vào tông mạch, tông mạch đầy lại truyền vào Lạc mạch, Lạc mạch đầy lại truyền vào đại kinh mạch” (TVấn 62, 53).

Như vậy, để chẩn đoán bệnh, nhất là trong Châm Cứu, cần nắm vững quy luật truyền biến của tà khí trong hệ thống Kinh Lạc.

Theo quan điểm Lục Kinh của ‘Thương Hàn Luận’, hệ Kinh Mạch được chia ra như sau:

* Phần Dương (bên ngoài cơ thể).

Thường chủ bệnh Thực.

1- Thái Dương chủ phần ngoài cơ thể (Biểu).

2- Thiếu Dương chủ phần trong cơ thể (Lư).

3- Dương Minh chủ phần bán biểu bán lư

* Phần Âm (bên trong cơ thể).

Thường chủ bệnh Hư.

4- Thái Âm chủ phần ngoài cơ thể (Biểu).

5- Thiếu Âm chủ phần trong cơ thể (Lư).

6- Quyết Âm (chủ phần bán biểu bán lư).

Nắm chắc được quy luật này, sẽ hiểu rơ được sự chuyển biến của tà khí trong các kinh.

Theo ‘Thương Hàn Luận’, nếu chính khí hư, tà khí thịnh th́ sẽ sinh ra sự truyền biến. Chính khí thịnh, tà khí suy th́ bệnh sẽ khỏi. Người cơ thể khỏe th́ bệnh truyền phần nhiều ở các kinh Dương, nếu cơ thể yếu th́ bệnh dễ truyền vào các kinh Âm.

Bệnh ở 3 kinh Dương thường truyền từ Biểu (ngoài ) vào Lư (trong), bệnh ở 3 kinh Âm phần nhiều từ Thực đến Hư.

Tà khí trước hết xâm nhập vào bên ngoài (phần biểu - dương) và đường kinh thụ bệnh đầu tiên sẽ là kinh Thái Dương (Bàng Quang + Tiểu Trường), sau đó sẽ truyền vào Dương Minh (bán biểu bán lư) rồi vào Thiếu Dương. Nếu không bị trừ khử th́ tà khí sẽ dần chuyển vào Thái Âm, sau đó vào Thiếu Âm rồi vào Quyết Âm.

Do đó, nghiên cứu về bệnh lư của 3 kinh Dương và 3 kinh Âm không chỉ biết về diễn biến (sự truyền kinh) mà c̣n giúp chẩn đoán được bệnh lư đang ở đâu, giúp cho việc điều trị được chính xác hơn.

TÀ KHÍ

Thái Dương (

Dương Minh (

Thiếu Dương (

Thái Âm (

Thiếu Âm (

Quyết Âm (

Mỗi kinh chịu ảnh hưởng của tà khí đều có biểu hiện riêng, v́ vậy, chúng tôi liệt kê chứng trạng chính của Lục Kinh dưới đây (theo Thương Hàn Luận) cho dễ *Tham Khảo:

LỤC KINH

Triệu Chứng

Điều Trị

Thái Dương

1* Trúng Phong: phát sốt, sợ gió, đầu đau, gáy cứng, ra mồ hôi, lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Hoăn.

2* Ôn Bệnh: Phát sốt, không sợ rét, đầu đau, khát nước, chất lưỡi hồng, rêu trắng mỏng hoặc vàng nhạt, mạch Phù Sác.

3* Thương Hàn: Phát sốt, sợ rét, không ra mồ hôi, đầu đau, cơ thể đau, lưng mỏi, khớp xương đau, nôn mửa, suyễn, lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Khẩn.

+ Phát hăn, giải biểu: châm huyệt Vinh và Du của kinh Phế và Tỳ: Ngư Tế (P.10) + Thái Uyên (P.9) + Đại Đô (Ty.2) + Thái Bạch (Ty.3) (LKhu 23, 30).

+ Sơ biểu, tán hàn. Chọn huyệt ở kinh Túc Thái Dương + Mạch Đốc làm chính, thêm Thủ Thái Dương kinh. Châm tả, có thể cứu.

Dương Minh

1* Kinh Chứng: Sốt cao, không sợ rét, sợ nóng, khát uống nước nhiều, ra mồ hôi, buồn bực, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng, Đại, Phù, Hoạt.

2* Phủ Chứng: Nóng từng cơn, có mồ hôi, khát nước, bứt rứt, nói sảng, bụng đầy, bụng cứng, thở mạnh, suyễn, quanh rốn đau, táo bón, nặng th́ tinh thần mê như thấy ma quỉ, lưỡi vàng ráo, nhờn, dày hoặc đen xạm, khô ráo, mạch Trầm, Thực, hữu lực.

- Tả thủ Dương Minh Đại trường + bổ túc Thái Âm Tỳ (LKhu.32, 5).

- Nếu Dương tà ở kinh túc Dương Minh Vị và thủ Dương Minh Đại Trường: châm 3 huyệt Hợp của kinh Vị: Túc Tam Lư (Vi.36) + Thượng Cự Hư (Vi.37) + Hạ Cự Hư (Vi.39) và huyệt Lạc Phong Long (Vi.40).

(LKhu.4, 100)

- Châm huyệt Du + châm ra máu Thập Nhị Tỉnh Huyệt + Thập Tuyên (LKhu 23, 28) và nơi khí giao lưu ở các Lạc của Vị (tức huyệt Giáp Xa (Vi.6).

Thiếu Dương

Miệng đắng, cổ khô, hoa mắt, lúc nóng lúc rét, ngực sườn đầy tức, khó chịu, buồn bực, muốn nôn, không muốn ăn, mạch Huyền.

Thiếu Dương là nơi nối kết giữa Thái Dương (ngoaøi) vaø Döông Minh (trong), giống như Kinh Chính nối với Lạc Mạch. V́ vậy, khi điều trị: châm huyệt Nguyên + Lạc.

Thái Âm

Bụng đầy mà nôn, ăn không được, tiêu chảy, có lúc bụng đau, không khát, mạch Hoăn Nhược

.Thái Âm = phần Biểu.

. Dương Minh = phần Lư. Thái Âm chịu ảnh hưởng của Dương chuyển vào, từ Thực chuyển thành Hư, v́ vậy phải dùng phép điều ḥa Biểu Lư.

Dùng Du và Nguyên huyệt của Tỳ + Lạc huyệt của Vị.

Thiếu Âm

1* Hư Hàn: Chỉ muốn ngủ, sợ rét, nằm co, tiêu lỏng, tay chân lạnh, bệnh nặng th́ lưỡi đen và trơn, mạch Vi, Tế.

2* Hư Nhiệt: Bứt rứt khó chịu, không nằm được, tiêu chảy, họng đau, ngực đầy, miệng khô, họng khô, chất lưỡi đỏ tươi, mạch Tế mà Sác.

*Hư Hàn: Hồi Dương, ḥa Vị. Nên dùng phép cứu. Bệnh ở trong, dùng huyệt Hợp.(LKhu 4.98).

*Âm và Dương đều hư: phải bổ Âm và tráng Dương. Bổ khí của Tỳ và Vị. Châm huyệt Hợp của Tỳ và Vị (Âm Lăng Tuyền - Ty.9 + Túc Tam Lư - Vi.36).

Quyết Âm

Miệng khát, uống nước liên tục, khí xông lên ngực, trong ngực đau nhói, cảm thấy nóng, đói mà không muốn ăn, nôn mửa ra giun, trên nhiệt, dưới hàn.

*Nhiệt Quyết: chọn huyệt ở kinh túc Thái Âm + túc Thiếu Dương (LKhu 21, 28).

*Hàn Quyết: thủ huyệt ở kinh túc Dương Minh và túc Thiếu Âm (LKhu 21, 29).

*Quyết Âm (Can) bị Hàn: châm huyệt Vinh + Du - Nguyên của Can (Hành Gian - C.2 + Thái Xung - C.3).

*Quyết Âm (Can) bị Nhiệt: châm huyệt Nguyên của Can (Thái Xung - C.3).