THUỐC
GIẢ
DS. PHAN
QUỐC ĐỐNG
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định
nghĩa thuốc giả là loại thuốc có nhăn mác sai
với đặc tính và nguồn gốc đă đăng
kư, bao gồm cả những sản phẩm có thành
phần đúng hoặc sai với đăng kư, không có
những thành phần công hiệu, hàm lượng thành
phần không đúng, làm giả bao b́ hoặc là sản
phẩm thật nhưng đă hết hạn sử
dụng và sau đó được dán nhăn lại.
N ạn thuốc giả là một vấn đề bức
xúc trên toàn cầu, trong thời gian gần đây lại
có xu hướng phát triển rất nhanh chóng ở
nhiều quốc gia châu Á.
Theo ước tính, thuốc giả đă gây những
tổn thất tài chính vào khoảng từ 5-15% doanh số
toàn cầu trong năm 2000 (chừng 317 tỷ USD).
Theo Tổng Giám đốc Liên đoàn Quốc tế
Hiệp hội các nhà sản xuất Dược phẩm
th́ ở nhiều quốc gia Đông Nam Á, có ít nhất 10% dược
phẩm lưu hành trên thị trường là hàng giả.
Tại Philippine, qua kết quả của một cuộc
nghiên cứu kéo dài trong 15 tháng do Viện An toàn Dược
phẩm thực hiện vào giữa thập niên 90 vừa
qua, cho thấy 8% dược phẩm trong số 1.359 mẫu
nghiên cứu, lấy từ 473 hiệu thuốc là hàng
giả, bao gồm những thuốc hen suyễn, các
loại kháng sinh, thuốc điều trị bệnh
tiểu đường, thuốc chữa bệnh tim
mạch.
Cũng tại Philippine, một công ty dược phẩm
đa quốc gia đă tá hỏa khi phát hiện một
sản phẩm rất ăn khách của ḿnh - một
loại ống hít trị hen suyễn đă bị mạo
hóa suốt từ năm 1990 đến nay.
Ở Trung Quốc, cơ quan chức năng c̣n phát
hiện kẻ gian dùng thuốc thú y, đóng gói lại
để bán cho người dùng và cũng phát hiện có
cơ sở dùng thuốc tiêm làm thuốc uống cho người
bệnh.
Ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) vào tháng 10/2001,
một cơ sở sản xuất thuốc bị kết
tội phổ biến loại thuốc mạo xưng là phương
dược cổ truyền "Huang Bai", nhưng
thực ra chỉ chứa toàn một thứ thuốc kháng
sinh của phương Tây đă hết hạn sử
dụng, làm cho một người bị hôn mê và 70 người
khác bị ngộ độc.
Tỷ lệ thuốc giả ở Trung Quốc đă đến
mức báo động, trung b́nh chiếm từ 10-15%, nhưng
cũng có nơi lên tới 50%, thậm chí 85%.
Ở Ấn Độ t́nh h́nh cũng không lấy ǵ làm sáng
sủa, việc quản lư 20.000 Công ty dược phẩm
ở đây không phải là chuyện dễ dàng, tỷ
lệ thuốc giả trung b́nh là 12%, đặc biệt có
thành phố lên tới 35-40%.
Ở khu vực Đông Nam Á, theo một nghiên cứu
được công bố trên tạp chí y học The Lancet
(tháng 6/2001) cho biết có khoảng 30% thuốc điều
trị sốt rét là thuốc giả, được bày bán
tràn lan trong các hiệu thuốc ở Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanma.
Hoạt động sản xuất, buôn bán thuốc
giả với khoản lợi nhuận khổng lồ
đă làm mờ mắt bọn tội phạm có tổ
chức, chúng núp bóng các công ty dược phẩm tung ra
thị trường hàng triệu viên thuốc giả
mỗi ngày. Bọn chúng đă sử dụng những
thiết bị và công nghệ rất hiện đại
cho hoạt động phi pháp của ḿnh như thiết
bị chế bản điện tử để làm nhăn mác
giả, khiến người tiêu dùng không thể phân
biệt được với nhăn mác thật...
Động lực chủ yếu là khả năng trục
lợi quá nhanh, quá nhiều. Ở Mỹ, trong năm
vừa qua người ta đă phát hiện 3 vụ sản
xuất thuốc giả , loại thuốc bị làm
giả rất nhiều là thuốc chữa bệnh AIDS,
với giá là 21.000USD trong 12 tuần điều trị.
Với chi phí bỏ ra chỉ bằng 20% so với việc
sản xuất thuốc thật, các tổ chức làm
thuốc giả đă thu được một khoản
lợi nhuận khổng lồ, thậm chí ngay cả khi bán
ra thị trường với giá chỉ bằng 1/2 giá
thuốc thật.
Hậu quả trước mắt của thuốc giả là
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe, tính mạng người bệnh. Hẳn chưa ai
quên là thuốc chống đông máu giả đă cướp
đi sinh mạng của 89 trẻ nhỏ ở Haiti hồi
năm 1996, rồi hàng ngàn người Nigêria cũng đă
bỏ mạng năm 1995, khi họ được tiêm
vaccin chống viêm năo giả.
Đáng sợ nhất là phần lớn người bệnh
ít khi ngờ rằng ḿnh đă dùng phải thuốc
giả, v́ hầu hết những cơ sở làm và bán
thuốc giả đều nằm trong một mạng lưới
hết sức tinh vi, có các phương tiện kỹ
thuật hiện đại, những mối quan hệ
bất chính với nhiều giới chức tham nhũng.
Thực tế ở nhiều nước cho thấy
việc làm ăn tội lỗi này rất ít khi bị
bại lộ và bị pháp luật trừng trị.
Người ta cho rằng một trong những nguyên nhân làm
cho việc sản xuất, buôn bán thuốc giả ở
khu vực châu Á bùng phát mạnh mẽ, phải kể
tới t́nh trạng thiếu các biện pháp chế tài
nghiêm khắc và thích đáng của các cơ quan pháp
luật đối với tội danh làm thuốc giả.
Chẳng hạn như ở Malaysia, mức phạt tối
đa đối với người sản xuất
thuốc giả chỉ ở mức 25.000 ringgit (tương
đương 6.580USD), trong khi mức phạt về
tội làm giả phần mềm và đĩa CD lại lên
tới 100.000 ringgit. Mặc dù luật h́nh sự có quy
định mức phạt cao nhất đối với
kẻ sản xuất thuốc giả là 3 năm tù giam nhưng
thực tế chưa một kẻ sản xuất
thuốc giả nào phải chịu mức án này.
C̣n ở Ấn Độ, hàng loạt những kẻ làm
thuốc giả bị bắt quả tang ở New Delhi
hồi tháng 7 năm ngoái, hiện vẫn c̣n đang bị
tạm giam chờ ngày đưa ra xét xử.
Nguy hiểm hơn, thời gian gần đây đă có
nhiều tội phạm ma túy nhảy sang buôn bán thuốc
giả v́ cho rằng đây là lĩnh vực an toàn và béo
bở hơn nhiều.
Báo SKDS