Ăn uống
để phòng tránh ung thư tuyến tiền liệt
Tác giả : BS. NGUYỄN LÂN ÐÍNH (Chuyên viên Dinh dưỡng)
Theo các thống kê dịch tễ học toàn cầu, người
ta thấy người Mỹ bị tử vong vì ung thư
tuyến tiền liệt (UTTTL) cao gấp 5 lần so với
người châu Á. Nhiều công trình nghiên cứu gợi
ý đó có thể là do những khác biệt trong bữa
ăn và nếp sống. Nói chung, người Mỹ
nạp vào khoảng 40% tổng số calo của họ
từ chất béo, trong khi tỷ lệ này ở người
châu Á thấp hơn nhiều, chỉ từ 10-20%.
Ðặc điểm bữa ăn của người châu Á
là có nhiều cá và những thức ăn thực vật
như rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt và đậu
nành, trong khi bữa ăn điển hình của người
phương Tây gồm nhiều thức ăn chế
biến công nghiệp, thức ăn "tiện nghi"
(convenience foods) và sản phẩm có nguồn gốc động
vật hơn.
Sau đây là những khuyến cáo của các chuyên viên
nhằm phòng tránh UTTTL và cung cấp những hướng
dẫn thực tiễn để ứng dụng các nguyên
tắc này vào bữa ăn.
1. Giới hạn tổng lượng chất béo
So sánh các khác biệt về văn hóa ẩm thực, người
ta đã xác định được Tổng cộâng
nhập lượng chất béo là một yếu tố có
liên quan trực tiếp với tỷ lệ mắc
phải UTTTL.
Trong thế kỷ 20, tỷ lệ mắc phải UTTTL
ở Mỹ đã tăng tỷ lệ thuận với
mức tiêu thụ gia tăng thịt đỏ, các
chất béo tiềm ẩn trong dầu, margarin, bơ và
những thức ăn chế biến qua lò nướng
(processed baked goods).
2. Giới hạn chất béo bão hòa
Những công trình nghiên cứu gần đây còn cho
thấy mối tương quan trực tiếp giữa
loại chất béo "bão hòa" bắt nguồn từ
thịt và các sản phẩm từ sữa với UTTTL.
Chất béo "bão hòa" chủ yếu có nguồn
gốc động vật, thí dụ thịt mỡ bò, bê,
heo, cừu, các sản phẩm từ sữa bò nguyên kem, bơ.
Ngay cả thịt gà nạc hay gà tây cũng đem lại
khá nhiều chất béo "bão hòa", nhất là khi
lựa chọn miếng thịt có "màu sậm" như
thịt đùi hay cánh và khi ăn cả da.
3. Cân đối các chất béo bất bão hòa
Các chất béo bất bão hòa chủ yếu là do những
thức ăn thực vật và cá đem lại. Nói chung,
mọi loại chất béo bất bão hòa đã được
chứng minh là "tốt cho tim mạch" vì làm hạ
cholesterol LDL "xấu".
Các thử nghiệm cận lâm sàng còn gợi ý là nếu
cố gắng tăng loại acid béo omega-3 và giảm
omega-6 thì có thể kiểm soát được tiến trình
phát triển khối u trong UTTTL.
Chất béo không no (bất bão hòa) gồm có:
- Loại có một nối đôi (có trong dầu ôliu,
dầu cải canola, trái bơ và đậu phộng).
- Loại có nhiều nối đôi trong đó có:
* Các acid béo hệ omega-6 có trong các loại dầu thực
vật như dầu bắp, d.rum (safflower oil),
* Các acid béo hệ omega-3 từ cá và hạt lanh (flaxseed).
4. Giảm thiểu acid béo dạng trans
Acid béo dạng trans là những chất béo bất bão hòa
đã bị chuyển biến về mặt đặc tính
hóa học trong quá trình hydrogen-hóa do chế biến công
nghiệp. Ðối với bệnh ung thư và tim mạch thì
chúng cũng chuyển tải những nguy cơ không khác gì
các chất béo bão hòa. Phần nhiều người ta
gặp các chất béo loại này trong margarin và những
sản phẩm "snack" hay nướng lò (baked goods),
ngoài bao bì ghi có dầu bị hydrogen - hóa một phần
(partially hydrogenated oil), là một trong những thành phần
nguyên liệu chính.
Tóm lại, trong nỗ lực phòng chống UTTTL, mục tiêu
là giảm tổng quát chất béo trong bữa ăn, đặc
biệt là giảm chất béo bão hòa, giảm acid béo
hệ omega-6 và giảm chất béo dạng trans, đồng
thời tăng acid béo hệ omega-3 vì tiềm năng
bảo vệ của chúng.
5. Cách thực hành những nguyên tắc trên
Ðể giảm chất béo trong bữa ăn, nên lưu
ý những vấn đề sau:
- Tránh dùng các món chiên.
- Sử dụng những cách đun nấu không đòi
hỏi nhiều dầu mỡ. Dùng bơm xịt (spray)
chất béo hay chảo không dính thay vì phải cho nhiều
dầu ăn. Chế biến bằng cách nướng, quay,
hay nấu lẩu.
- Lạng bỏ hết những chỗ có mỡ trông
thấy rõ trong thức ăn trước khi đun nấu.
- Với các sản phẩm từ sữa, chỉ nên dùng
những loại không béo hay có hàm lượng béo
thấp, "béo thấp" là mỗi suất thức
ăn (serving) không đem lại quá 3g chất béo, và
"không béo" có nghĩa là một suất ăn có dưới
1/2g chất béo.
- Loại bỏ hẳn thịt mỡ như xúc xích heo (hot
dogs), thịt có lẫn mỡ, thịt đùi gà, vịt).
Cố gắng giới hạn không ăn thịt đỏ
quá 1 lần/tuần hay 1 tháng, tốt nhất là bỏ luôn
không ăn.
- Loại bỏ các thức ăn giàu chất béo như các
loại nước xốt (gravies), đặc biệt là
xốt có kem sữa (cream sauces), da gà, vịt, xúp có kem
sữa (cream soups), đậu phộng, hạt điều
(nuts), sôcôla. Thay vào đó nên sử dụng các loại
"xốt" và "xúp" có nguyên liệu chính là cà
chua (tomato based).
6. Ăn nhiều rau và trái cây
Danh sách những hợp chất có lợi để phòng
tránh UTTTL có thể còn dài hơn nên trong khi chờ đợi,
các nhà dinh dưỡng khuyến cáo nên ăn đa
dạng rau và trái cây, tập trung vào các loại đậm
màu sắc xanh, đỏ, vàng...
Mỗi ngày nên ăn ít nhất 5 suất rau và trái cây,
nhắm tới tối thiểu 9 suất/ngày và xem đấy
như mục tiêu dài hạn vì chắc chắn sẽ có
lợi cho sức khỏe.
Một suất hay phần có thể được ấn
định bằng 1 chén (cup) rau sống, 1/2 chén rau
luộc, 1 trái cây vừa phải, 2/4 chén nước ép trái
cây, 1/2 chén trái cây đóng hộp hay 1/4 chén trái cây khô
(nho, hồng, mận, mơ). Tốt nhất là nên chọn
rau sống, rau nấu chín và trái cây ăn cả quả
để được hưởng cả chất xơ.
Mặc dù chất xơ theo định nghĩa là dạng
carbohydrat không hấp thu được, nhưng lợi ích
của nó là khi vào ống tiêu hóa sẽ thải được
hormone và các chất béo. Ngoài rau và trái cây, còn có
nhiều cách để đưa thêm chất xơ vào
bữa ăn với:
- Ngũ cốc nguyên hạt, gạo lức, lúa mạch,
hạt bo bo, như chọn mì làm từ bột mì nguyên cám
trong món xúp, món hầm hay món phụ.
- Thêm các loại đậu hạt như petits pois, đậu
trắng, đậu lăng vào món chính, món xúp hay xà-lách.
- Chọn loại "ngũ cốc điểm tâm"
(breakfast cereals) sao cho mỗi suất đem lại > 3-5g
chất xơ hoặc pha trộn loại ngũ cốc
điểm tâm ưa thích của bạn (vốn nghèo
chất xơ) với cám đóng thành cốm (bran flakes)
theo tỷ lệ 1/1.
- Bánh mì, "ngũ cốc" và nui có lúa mì hay cốc
loại nguyên hạt được liệt kê hàng đầu
trong danh sách nguyên liệu thành phần trên nhãn bao bì.
7. Ăn đậu nành vì những lý do đặc
biệt
Thông qua những thức ăn chế biến từ
đậu nành như tàu hũ (đậu phụ), tương
hột (tempeh) và sữa đậu nành. Lý do vì đây là
nguồn isoflavon (genes-tein và daidzein) độc nhất, có
đặc tính của hormone estrogen thực vật
(phytoestrogen) chống lại sự phát triển của
những khối u nhạy cảm với estrogen như trong
UTTTL. Thêm vào đó, những nghiên cứu trong phòng xét
nghiệm còn chứng minh được là chất genestein
có tác dụng ức chế được sự phát
triển của các tế bào UTTTL, cả loại lệ
thuộc lẫn loại không lệ thuộc vào hormone.
Nhắm tới mục tiêu làm sao đạt được
25-40g protein đậu nành ăn vào mỗi ngày. Thực
tế một số sản phẩm từ đậu nành còn
là những nguồn chất kháng - oxy - hóa và chất xơ,
có hàm lượng chất béo thấp, hiện có số lượng
sản phẩm khá đa dạng trên thị trường.
Kết luận
Các thay đổi trong bữa ăn không thể thực
hiện một cách quá đột ngột. Cách tốt
nhất là nam giới có tuổi nên tự đặt ra cho
bản thân những mục tiêu ngắn hạn nhưng
cụ thể. Với các hướng dẫn trên đây,
nếu mỗi lần bạn có quyết định
"thay đổi" thì chỉ nên chọn một điểm
nào đó, không nên tham lam, ôm đồm dễ dẫn
tới bỏ cuộc!
Thoạt tiên, chẳng hạn nên tập trung vào tiết
giảm chất béo. Một khi đạt được
mục tiêu này thì mới nên chuyển sang tăng rau và trái
cây - tìm cách ăn nhiều và đa dạng hơn. Cứ
với thức ăn nào mà người "có nguy cơ"
đưa vào được hay loại bỏ được
khỏi bữa ăn, có thể kể như đã đạt
một thành tích trong cuộc chiến bảo vệ cơ
thể tránh được UTTTL.
Báo SKDS 220