NHỮNG CÂU CHUYỆN
VỀ CÂY LÔ HỘI
Tác giả : BS. QUAN THẾ DÂN (BV. Thống Nhất)
Mô tả cây:
Lô hội, c̣n gọi là long tu, lưu hội, nha đam, có
tên khoa học Aloe Vera Linne thuộc họ bạch huệ
Liliaceae. Là dạng cây cỏ mập màu xanh lục
nhạt, thân ngắn hóa gỗ mang một bó lá dày
mọng nước. Lá h́nh ba cạnh, mép dày, có răng cưa
thô cứng, dài 30-50cm, rộng 5-10cm, dày 1-2cm. Lá lô hội
gồm 2 phần: phần ngoài là lớp vỏ xanh, khi
cắt ngang chảy ra nhựa màu vàng có mùi hắc, để
khô chuyển thành màu đen; phần trong là phần
thịt mọng nước dạng gel. Cụm hoa có cán cao
khoảng 1m, mọc thành chùm thơng xuống, hoa to đều
có các mảnh bao hoa dính thành h́nh ống, màu vàng lục
nhạt. Quả nang h́nh trứng màu xanh, chứa nhiều
hạt.
Lô hội thích hợp với khí hậu nóng và đất
không ngập nước, phân bố rộng răi trên
khắp thế giới. Cây được trồng trên
diện tích lớn để lấy lá làm nguyên liệu
sản xuất thuốc và mỹ phẩm, ngoài ra cây c̣n
được trồng làm cảnh.
Vài nét về lịch sử cây lô hội:
Cây lô hội có nguồn gốc từ Bắc Phi và Trung
Đông, từ rất lâu đă được loài người
sử dụng để làm thuốc. Tài liệu cổ
nhất là của người Sumeri, viết bằng
chữ h́nh nêm trên những phiến đất nung, t́m
thấy ở thành phố Nippur, có niên đại 2200 năm
trước Công nguyên. Họ sử dụng toàn bộ lá
lô hội để làm thuốc tẩy xổ. Đến năm
1550 trước Công nguyên, có ghi chép của người Ai
Cập cổ đại trên giấy sậy. Người
Ai Cập cổ dùng lá lô hội đơn thuần
hoặc phối hợp với nhiều dược thảo
thành 12 dạng bào chế khác nhau, dùng chữa nhiều
bệnh bên trong và bên ngoài. Khoảng 400 năm trước
Công nguyên, lá lô hội khô và nhựa lô hội được
bán sang châu Á. Khoảng 50 năm trước Công nguyên,
Celsius, một thầy thuốc Hy Lạp đă sử
dụng nhựa lô hội trong y học làm thuốc
tẩy. Từ đây lô hội ngày càng được
sử dụng rộng răi trong y học Hy Lạp - La Mă và
y học phương Tây sau này. Khoảng thế kỷ
thứ 7-8, đời Tùy - Đường, lô hội
được sử dụng ở Trung Quốc. Quyển sách
thuốc sớm nhất của Trung Quốc (đời Đường)
có chép về lô hội là sách Bản thảo, (Tân tu
bản thảo của Lư Tích?). Người Trung Quốc
gọi cây này là lô hội, có nghĩa là loài cây cho
nhựa đen. Các thầy thuốc Trung Quốc dùng lô
hội để chữa các bệânh sốt cao, co
giật ở trẻ em cũng như dùng làm thuốc
tẩy xổ. Vào thế kỷ 16-17, lô hội theo chân người
Tây Ban Nha sang châu Mỹ. Cây trở nên phổ biến
tại đảo Caribê, trung và nam Mỹ. Từ đây vùng
đất mới này lại trở thành nơi sản
xuất lô hội chính để xuất khẩu sang châu
Âu. Năm 1720 cây lô hội được Carl Von Linne mô
tả và đặt tên Aloe Vera Linne, đó cũng là tên
khoa học của cây dùng tới ngày nay. Năm 1820, lô
hội chính thức được công nhận trong Dược
điển Mỹ với tác dụng tẩy xổ và
bảo vệ da.
Ứng dụng trong Đông y
Lô hội dùng trong Đông y là nhựa cây lô hội có màu
đen. Việt Nam hay Trung Quốc đều phải
nhập nhựa lô hội từ nước khác. Cách
chế biến lô hội như sau: cắt lá lô hội,
xếp đầu cắt quay xuống dưới để
hứng lấy nhựa. Sau khi nhựa chảy hết th́
bỏ lá đi, đem nhựa cô lại trên ngọn
lửa nhỏ cho đặc lại, đóng thành bánh
gọi là vị thuốc lô hội. Hoặc cắt nhỏ
lá rồi ép lấy nước và cô lại, nhưng cách
này nhựa lô hội có nhiều tạp chất hơn. Sách
thuốc Đông y mô tả lô hội có vị đắng, tính
hàn, có tác dụng thanh tả can hỏa, sát trùng, chữa
các chứng táo bón do nhiệt, cam tích trẻ em, dùng ngoài
trị chàm lở. Trong các vị thuốc Đông y, có lẽ
lô hội là vị thuốc đắng nhất, chủ
thanh chứ không bổ nên người thể chất
yếu không nên dùng.
Một số đơn thuốc có dùng lô hội:
- Bài Đương quy lô hội hoàn:
Lô hội, đại hoàng, thanh đại, mỗi thứ
3g; đương quy, long đởm thảo, hoàng cầm,
chi tử, hoàng liên, hoàng bá mỗi thứ 6g; mộc hương
5,5g, xạ hương 0,3g tán riêng. Tất cả tán
bột mịn luyện mật làm hoàn, mỗi lần
uống 6-10g, ngày 3 lần.
Chủ trị chứng can đởm thực nhiệt gây táo
bón, tiểu đỏ ít, hoa mắt chóng mặt, hoặc
nặng hơn có thể co giật, phát cuồng, nói
nhảm.
- Bài lô hội hoàn:
Lô hội, diên hồ sách, mộc hương đều
3g; vô di, thanh b́ đều 6g, đương quy, phục
linh, trần b́ đều 10g; chích thảo 3g, tất
cả tán bột mịn làm viên hoàn, ngày uống 6-10g.
Chủ trị trẻ em bị giun đũa, suy dinh dưỡng.
Những ứng dụng trong y học hiện đại:
Năm 1934, bác sĩ C. E. Collins dùng lá lô hội để
chữa cho một phụ nữ 31 tuổi bị bỏng do
tia phóng xạ ở vùng đầu. Ông dùng lá lô hội
cắt đôi áp lên vết thương, hoặc chế
biến thành dạng thuốc mỡ gồm cả phần
vỏ và gel nghiền lẫn. Sau 3 tháng, lớp da đầu
đă lành như cũ không để lại sẹo.
Tiếp đó ông dùng lô hội chữa cho 15 người
bị các tổn thương da khác nhau do tia phóng xạ và
tất cả đă lành bệnh. Đây là ứùng dụng
đầu tiên trong y học hiện đại của lô
hội. Phát hiện này được nhiều bác sĩ
khác ứng dụng và công nhận. Năm 1940-1941, T. Rowe, B.
K. Lovell và Lloyd M. Parks báo cáo cho biết lô hội giúp lành
các vết bỏng nhanh hơn bất kỳ biện pháp nào
khác vào thời kỳ đó. Họ cũng nhận
thấy rằng chất chữa bệnh nằm ở
phần vỏ và chất nhựa của lô hội, chứ
không nằm trong phần gel. Năm 1953 các nhà nghiên cứu
ở Ủy ban nguyên tử lực Hoa Kỳ khẳng định
lô hội chữa lành các vết loét do phóng xạ trên súc
vật thí nghiệm nhanh hơn 50% các biện pháp khác. Năm
1945, nhà bác học Nga Filatov phát hiện nước ép lô
hội chữa được nhiều bệnh ngoài da và
bệnh phổi. Đặc biệt ông nhận thấy đặt
lá lô hội vào bóng tối hoặc nơi lạnh th́ lá cây
sản sinh ra các kích sinh tố (biostimulines), và đó là cơ
sở để sản xuất ra thuốc Philatop từ lô
hội. Các bác sĩ Liên Xô đă so sánh hiệu quả
của Philatop từ nhau thai với Philatop lô hội th́
thấy ở các lô chuột bị tiêm chất độc
Strychnin liều tử vong 100% (LD100), Philatop lô hội
cứu sống được 35%, c̣n Philatop nhau thai chỉ
cứu được 4%! (Kiev 1975). Các nghiên cứu
tiếp theo cho thấy lô hội có hoạt tính kháng sinh
cao, chữa lành nhiều vết thương ngoài da cũng
như răng miệng, dạ dày, đại tràng. Năm
1978 G. R. Waller ở trường Đại học tổng
hợp bang Oklahoma báo cáo cho biết trong phần vỏ và
nhựa của lô hội có chứa các acid amin tự do, các
đường đơn, B-sitosterol, lupeol; trong đó
B-sitosterol có tác dụng chống viêm và làm giảm
cholesterol máu; lupeol làm giảm đau và chống các vi sinh
vật. Năm 1980, John Heggars ở Trung tâm Bỏng, trường
Đại học Tổng hợp Chicago t́m thấy acid salicylic
và chất giống như cortison trong lô hội, điều
này giải thích phần nào tác dụng giảm đau
chống viêm của cây. Từ cuối những năm 1980
và cả thập niên 1990 do đứng trước đại
dịch AIDS, các nhà khoa học Mỹ đă tập trung nghiên
cứu xem liệu lô hội có tác dụng chống HIV hay
không. Đă có một số báo cáo lạc quan về khả
năng tiêu diệt HIV, cũng như khả năng kích thích
hệ miễn dịch cơ thể chống lại virus,
chống lại tế bào ung thư. Năm 1994, FDA đồng
ư cho thử nghiệm trên người các chế phẩm
chống HIV làm từ lô hội. Hiện các nghiên cứu
vẫn đang được tiến hành.
Ở Việt Nam, GS. Nguyễn Thiện Thành là người
từ lâu say mê nghiên cứu áp dụng các lợi ích
của lô hội. Trong kháng chiến chống Pháp,
được biết các công tŕnh của Filatov qua sách báo,
ông đă phổ biến cách sản xuất thuốc
Philatop làm từ lô hội trong chiến khu Khu 9, góp
phần bảo vệ sức khỏe cho cán bộ,
chiến sĩ. Năm 1955, sau khi tập kết ra Bắc, ông
vinh dự được sang Liên Xô dự Hội nghị
khoa học chúc thọ nhà bác học Filatov 80 tuổi,
tại đây ông được Filatov đích thân
giải thích về sức sống kỳ diệu của lô
hội. Hiện nay chế phẩm Philatop lô hội vẫn
tiếp tục được sử dụng tại
một số bệnh viện.
Một số vấn đề cần thảo luận thêm
Lô hội được sử dụng rất rộng răi
trên thế giới làm mỹ phẩm. Theo Hiệp hội
mỹ phẩm hương liệu và sản phẩm toilet
th́ các sản phẩm có lô hội chiếm hơn 33%
thị trường mỹ phẩm nói chung của Mỹ.
Trong y học lô hội cũng có nhiều ứng dụng
kỳ diệu. Nhưng sự thật ra sao? Sau đây tôi
thử nêu lên một số điểm cần thảo
luận thêm:
- Lô hội chữa được AIDS, ung thư. Điều
này thực hư thế nào? Các nghiên cứu thấy
rằng lô hội có chứa trên 20 loại polypeptids có tác
dụng kích thích khả năng miễn dịch, cũng như
có ít nhất là 3 chất chống khối u. Như vậy
lô hội sẽ góp phần chống các bệnh về siêu
vi (trong đó gồm cả HIV) cũng như ung thư. Tuy
vậy quá tŕnh nghiên cứu vẫn đang tiếp
tục, nên chưa thể khẳng định lô hội
sẽ thay thế được các thuốc đặc
trị, mà chỉ nên dùng như một liệu pháp dinh dưỡng
bổ sung.
- Phần gel (phần thịt trong suốt) của lá lô
hội là quan trọng nhất, có tác dụng duy tŕ
tuổi thọ. Quan niệm này khá phổ biến, nhân dân
thường lấy phần ruột trong này nấu chè, c̣n
các công ty dược chế biến gel này và đóng thành
viên nang. Tuy vậy các nghiên cứu cho thấy phần gel cũng
chỉ có giá trị dinh dưỡng tương tự như
một loại rau xanh mà thôi. Tác dụng chữa bệnh
của lô hội nằm ở phần vỏ xanh và
chất nhựa. Điều này cũng phù hợp với kinh
nghiệm hàng ngh́n năm của y học cổ châu Âu cũng
như Đông y.
- Lô hội độc hay không độc? Nếu dùng
với liều nhỏ (0,1- 0,5g nhựa), lô hội có tác
dụng kích thích tiêu hóa; nhưng với liều cao (8g)
sẽ làm sung huyết niêm mạc ruột, thận, gây tiêu
chảy, vô niệu dẫn đến tử vong. Lô hội
dùng ngoài không có ǵ đáng lo ngại, nhưng nếu dùng
trong th́ phải cẩn thận về liều lượng.
Như vậy hiện nay có thể khẳng định lô
hội có tác dụng chữa các bệnh sau: nhuận tràng,
chữa bỏng, các vết thương ngoài da, nấm da,
eczema, trứng cá, rụng tóc, viêm quanh răng, viêm dạ
dày, viêm đại tràng, góp phần chữa béo ph́,
tiểu đường, bệnh tim mạch, nâng cao
miễn dịch cơ thể... và tất nhiên ứng
dụng lớn nhất vẫn là về lĩnh vực
mỹ phẩm.
Nguồn : Báo SKDS