Thuốc Nam chữa
bỏng
Tác giả : GS. TSKH. Lê Thế
Trung (Chủ tịch Hội bỏng Việt Nam)
ĐIỀU
TRỊ BỎNG THEO Y LƯ Y HỌC CỔ TRUYỀN
Y học cổ truyền dân tộc đă phân loại
bỏng do nước sôi, do lửa và trạng thái
ngạt thở do khói đen. Các vị danh sư Tuệ Tĩnh
và Hải Thượng Lăn Ông đă đưa ra nhiều
vị thuốc và bài thuốc chữa bỏng. Ngoài ra trong
dân gian cũng lưu truyền nhiều bài thuốc
chữa bỏng rất tốt.
Theo y lư y học cổ truyền, để chữa
bỏng phải làm mát cái nóng đă nhập vào cơ
thể và chống độc, giải độc, bồi
bổ tâm dịch, chống thoát nước, điều ḥa
khí huyết, b́nh ổn âm dương, bồi dưỡng
cơ thể, khôi phục tinh thần.
Tuệ Tĩnh có khuyên dùng nước tiểu trẻ em
khỏe mạnh để uống khi bị bỏng, dùng lá
củ cải giă nát lấy nước uống để
chữa ngạt do hít thở khói.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, tại các vùng giải phóng, khu căn cứ và trên
chiến trường, chúng ta đă sử dụng hiệu
quả nhiều bài thuốc chữa vết thương
bỏng có nguồn gốc tự nhiên theo kinh nghiệm dân
gian.
Những năm gần đây, ta đă thừa kế, nghiên
cứu ứng dụng thành công một số thuốc nam
chữa bỏng.
CÁC BÀI THUỐC CHỮA BỎNG
1. Những bài thuốc uống:
Trong giai đoạn nhiễm độc cấp bỏng, có
thể dùng:
a. Hoàng liên giải độc thang: Hoàng liên 12g, hoàng
cầm 8g, chí tử 16g.
b. Hộ tâm thang: Đăng tâm 4g, cam thảo 12g, mạch môn
12g, đậu xanh 40g, trúc diệp 10 lá.
c. Để chữa nhiễm khuẩn, có thể dùng bài
thuốc: Ké đầu ngựa 10g hoặc 20g, kim ngân hoa
10g, bồ công anh 10g, ṿi voi 10g, cỏ mần chầu 10g,
hạ khô thảo 10g, kinh giới 10g, cam thảo nam 10g.
2. Thuốc bôi dùng chữa vết thương bỏng:
A. Các thuốc làm se khô và tạo màng che phủ vết thương
bỏng mới.
Có nhiều loại thuốc đă được dùng
phổ biến nhất là Tanin dung dịch 5%. Phương
pháp dùng tanin để làm đông dịch vết thương,
kết tủa protein, tạo thành một màng vẩy
được David Clegbcrn (1858) đề xuất. Bettman,
A.G (1935) dùng dung dịch acid tannic 5% và dung dịch Nitrat
bạc 10%. Có tác giả dùng bột Alumin rắc, dùng
Azosuluamid + Tiritricine hoặc các chất tạo màng bằng
Polyurethan, Polytetrafluoroethylen Polyvinyl, Polyvinylalcool, các chất
tạo keo đơn phân tử...
Một số cây thuốc nam có tác dụng làm se khô và
tạo màng vẩy là cao đặc lá sim (Rhodomyrius tomentasa
Wight), nước sắc đặc vỏ cây xoan trà
(Chorospondias axillaris Hill-Roxd họ Anacardiaceae)...
Thuốc bỏng chế từ vỏ cây xoan trà (kư
hiệu B76). Là cao đặc xoan trà có tỷ trọng d:
1,22-1,24, độ nhớt n = 5,36 poises; pH: 7,0; cặn khô:
50%; chứa các thành phần: tanin 32,1%; gôm nhựa 14%; Flavon
5,4%; dầu béo 1,37%; quinon 0,5%. Cao đặc được
chuyển sang dưới dạng bột thuốc khô màu nâu
mịn, tan nhanh trong nước nóng.
Bột xoan trà (thuốc bỏng B76) được dùng
rắc phun trên các vết thương bỏng mới sau
khi đă được xử lư vô khuẩn kỳ đầu
theo những quy tắc đă nêu (rửa sạch, cắt
bỏ ṿm các nốt phồng, rửa vô khuẩn, thấm
khô). Sau khi rắc phun, lớp thuốc sẽ kết
hợp với các phần hoại tử đông của thành
phần mô liên kết trung b́, gắn chặt và bám vào
vết thương bỏng mới, tạo thành một màng
thuốc che phủ cho vết bỏng. Màng khô nhưng không
nứt nẻ và cản trở các động tác của
người bỏng. Đây là phương pháp hở không
cần băng nên tiết kiệm được gạc, băng
bông, thuốc giảm đau cho người bệnh, không c̣n
mùi hôi. Không dùng thuốc ở các vết bỏng cũ
hoặc vết bỏng đă nhiễm khuẩn. Tránh bôi kín
tạo màng thuốc cả chu vi một ngón, một chi,
một bộ phận cơ thể v́ sẽ gây chèn ép, bó
chặt, cản trở lưu thông tuần hoàn.
Thời gian khỏi của bỏng nông giảm ngắn
được từ 2-5 ngày. Màng thuốc sẽ tự
rụng hoặc được cắt bỏ khi bỏng nông
đă khỏi.
Thuốc bỏng chế từ các cây khác như kháo nhâm
(Machilus odoratissimaness, laurace), kháo vàng (Machilus bonii H.
Lee-lauraceae), hu đay (trema augustifola B.I Ulmaceae), săng lẻ
(Lagerstroemia tomentosa, lythraceae), sú (Aegiceras cornin culatum Gacrin,
Myrsinaceae), nâu (Dioscorera eirrhosa lour, Dioscoreaceae) ṣi (Sapium
sibyferum L. Euphorbiaceae, sến (Madhuca pasquieri-Dubard-H., Sapotaceae)
được chế dưới dạng cao và cách sử
dụng cũng như cao lá sim, cao vỏ cây xoan trà.
B. Nhóm thuốc làm rụng nhanh các hoại tử ở
vết bỏng:
1. Mă đề: (Plantago major var, asitica Decaisne họ
Plantaginaceae).
- Có tác dụng loại trừ tổ chức hoại
tử, ức chế sự phát triển của staphylococcus
aureus, ít tác dụng với pseudomonas aeruginosa, kích thích tái
tạo tổ chức.
- Cách dùng: Cao mă đề bôi hoặc nước ép để
rửa, giă lá đắp trên vết thương, thuốc
mỡ mă đề dạng bôi.
2. Nghệ (Curcuma longo Lin, họ Zingiberaceae). Đối với
vết thương, vết bỏng dùng nước ép
nghệ, kem nghệ 5% bôi trên vết thương, vết
bỏng.
- Tác dụng làm rụng mô hoại tử, kháng khuẩn.
Kem nghệ ảnh hưởng rơ rệt đến sự
phát triển của staphy lococcus aureus và nấm Candida
albican, kích thích tái tạo mô. Người ta c̣n dùng nước
ép nghệ để rửa bàng quang, chỗ bị viêm,
rửa các loét điểm tỳ.
3. Dung dịch mủ đu đủ 2-10%, dùng băng
gạc thấm ướt liên tục trên vết thương
vết bỏng, hoặc nhỏ giọt liên tục trên
vết hoại tử bỏng, có tác dụng làm rụng
hoại tử do tác dụng của men Papain.