Hoa phù dung làm
thuốc
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG
KHÁNH TOÀN (Khoa Ðông y - Viện Quân y 108)
MÔ
TẢ CÂY
Phù dung là loại cây mọc hoang và được
trồng ở nhiều nơi để làm cảnh, tên
khoa học là Hibiscus mutabilis L., trong dân gian còn được
gọi là mộc liên, địa phù dung, tam biến hoa,
thất tinh hoa, sương giáng hoa, túy tửu phù dung,
đại diệp phù dung... Cây phù dung nhỏ, cao chừng
2-5m, cành có lông hình sao ngắn, vỏ thân có nhiều xơ
sợi, lá mọc cách, xẻ 3-5 thùy, hình bàn tay, rộng
10-20cm, mặt trên có lông, mép khía răng cưa. Hoa to và
đẹp, mọc đơn độc hoặc tụ
nhiều hoa, khi mới nở vào buổi sáng có màu
trắng, chiều ngả màu hồng đỏ. Quả hình
cầu năm cạnh, đường kính từ 2-5cm, có lông
màu vàng nhạt.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Ngoài công dụng làm cảnh, vỏ thân phù dung trắng,
mềm có thể dùng để bện thừng, dệt
vải hoặc làm giấy; Lá và hoa tươi hoặc khô
được dùng làm thuốc. Theo nghiên cứu hiện
đại, hoa phù dung có chứa Anthocyanin, Isoquercitrin,
Hyperin, Hyperoside, Rutin, Quercitin - 4’ - glucoside, Spiraeoside,
Querci-meritrin... Ðiều đặc biệt là hàm lượng
một số chất thay đổi cùng sự biến màu
của cánh hoa theo thời gian trong ngày: Sáng sớm khi hoa màu
trắng thì không chứa Anthocyanin; Buổi trưa và
xế chiều, khi hoa chuyển sang màu hồng nhạt
rồi hồng đỏ thì lại xuất hiện
Anthocyanin và một số dẫn chất của nó như
Cyanidin 3, 5-diglucoside, Cyanidin 3-rutinoside - 5-glucoside; Riêng xế
chiều hàm lượng các chất này cao gấp 3 lần
so với buổi trưa.
Theo y học cổ truyền, hoa phù dung vị cay, tính bình,
có công dụng thanh nhiệt giải độc, lương
huyết chỉ huyết (làm mát huyết và cầm máu), tiêu
thũng chỉ thống (làm hết phù thũng và giảm
đau), thông kinh hoạt huyết, bài nùng (làm hết
mủ); Ðược các sách thuốc cổ như Bản
thảo cương mục, Bản thảo đồ kinh,
Bản thảo cầu chân, Trấn nam bản thảo, Sinh
thảo dược tính bị luận. dùng để
chữa các chứng bệnh như ung thũng, mụn
nhọt, lở loét, bỏng, ho do phế nhiệt, thổ
huyết, băng lậu, bạch đới...
MỘT SỐ CÁCH DÙNG CỤ THỂ
- Cảm mạo: Hoa hoặc lá phù dung 30g, hậu phác 3g.
Sắc kỹ 2 lần lấy 2 nước hòa đều,
chia uống 3 lần trong ngày.
- Ho do hư lao: Hoa phù dung 60-120g, lộc hàm thảo (Pyrola
rotundifolia L.) 30g, đường đỏ 60g, hầm
với tim và phổi lợn ăn.
- Phế ung (áp-xe phổi): Hoa phù dung 20-30g sắc uống.
Có thể cho thêm 10-20g đường phèn.
- Ho ra máu: Hoa phù dung 10 đóa sắc uống.
- Tử cung xuất huyết, kinh nguyệt kéo dài không
dứt: Hoa phù dung 9-30g sắc uống, hoặc hoa phù dung và
gương sen (liên phòng) lượng bằng nhau, sấy
khô tán bột, uống mỗi ngày 6g với nước cơm.
- Kinh nguyệt không đều: Hoa phù dung hoặc vỏ
rễ 9-12g, sắc uống.
- Thống kinh: Ðế hoa phù dung 7 cái, sắc kỹ lấy
nước, hòa thêm một chút đường phèn
rồi uống.
- Khí hư (bạch đới): Hoa phù dung 10 đóa sắc
uống.
- Viêm âm đạo: Hoa hoặc lá phù dung 1.000g, sắc
kỹ lấy 1.000ml, bỏ bã, để nguội, cho thêm
benzoic acid 0,3% để bảo quản bằng dung dịch
thuốc tím 1‰, sau đó dùng dịch chiết hoa phù dung
ngâm rửa kỹ, mỗi ngày 1 lần.
- Viêm tuyến vú: Dùng hoa, lá hoặc rễ phù dung sắc
uống hoặc giã nát đắp vào vùng tổn thương.
- Trẻ em hay đầy bụng do giun: Hoa phù dung hái lúc còn
màu trắng, phơi khô trong bóng râm rồi thái nhỏ
nấu canh với gan gà cho ăn hàng ngày.
- Viêm khớp: Hoa phù dung 15g, xích đậu 15g, hai thứ
nghiền nhỏ, trộn với mật ong rồi đắp
lên khớp đau. Cũng có thể thay thế bằng
bột lá phù dung khô.
- Tổn thương do trật đả: Dùng hoa và lá phù
dung tươi giã nát đắp vào nơi tổn thương
hoặc dùng bột hoa phù dung khô trộn với dấm, rượu
và nước trà thành dạng cao rồi đắp lên
chỗ đau.
- Loét giác mạc: Hoa hoặc lá phù dung tươi rửa
sạch, giã nát và trộn với một chút muối
rồi đắp lên mắt bị bệnh. Kinh nghiệm này
có lẽ không nên áp dụng vì lý do vệ sinh, tuy nhiên
vẫn nêu ra để gợi ý cho việc nghiên cứu
điều trị một số bệnh lý nhãn khoa
bằng hoa phù dung dưới dạng các chế phẩm khác,
đảm bảo an toàn và khoa học hơn.
- Viêm kết mạc: Hoa phù dung 9-30g, sắc uống.
- Chắp và lẹo mắt: Hoa phù dung tươi 3g, bạc
hà tươi 3g, hai thứ rửa sạch, giã nát rồi
đắp lên tổn thương, mỗi ngày 2-3 lần.
- Mắt sưng đau do chấn thương: Dùng hoa
hoặc lá phù dung non 1 nắm, sinh địa 6g, hai thứ
nghiền nát, trộn với sữa người rồi
đắp lên mắt bị bệnh.
- Zona, vết thương do ong đốt, rắn độc
và trùng bọ cắn: Hoa hoặc lá phù dung lượng
vừa đủ, phơi khô trong bóng râm, tán bột,
trộn với dầu vừng rồi bôi vào vết thương.
- Bỏng: Dùng hoa hoặc lá phù dung 18g, đại hoàng 12g,
bạch chỉ 9g, cam thảo 9g. Tất cả sấy khô,
nghiền thành bột mịn rồi trộn với dầu
trà hoặc dầu vừng bôi lên tổn thương.
Hoặc hoa phù dung 15g, thanh đại 9g, hai thứ tán
bột, trộn với dầu vừng bôi vào nơi bị
bỏng. Hoặc dùng hoa phù dung tươi lượng
vừa đủ đem ngâm trong dầu ăn cho đến
khi hoa chìm xuống đáy thì lọc bỏ bã, đựng
trong bình kín dùng dần; hàng ngày từ 2-3 lần dùng
gạc hoặc bông vô trùng thấm dầu thuốc bôi
nhẹ nhàng vào vết thương.
- Mụn nhọt, đinh độc, hậu bối, chín mé:
Hoa hoặc lá phù dung sấy khô tán bột, trộn với
vaseline thành cao mềm theo tỷ lệ 1: 4 rồi đắp
lên tổn thương, hàng ngày hoặc cách ngày thay
thuốc một lần. Hoặc hoa phù dung 30g, đan bì 15g,
sắc uống. Hoặc hoa phù dung và dã cúc hoa lượng
bằng nhau, sấy khô, tán bột, trộn với mật
ong bôi lên tổn thương. Hoặc hoa phù dung tươi
giã nát đắp vào nơi bị bệnh. Hoặc hoa hay lá
phù dung 1 phần, củ chuối tiêu 2 phần, lá vòi voi (có
thể thay bằng rau má tươi) 1 phần, muối
ăn một chút, tất cả giã nát rồi đắp lên
tổn thương. Hoặc hoa hay lá phù dung 1 phần, lá dâu
leo (nho dại) 1 phần, hai thứ giã nát, trộn thêm chút
muối rồi bó vào nơi bị bệnh.
Một công trình nghiên cứu của các tác giả Trung
Quốc dùng cao mềm hoa phù dung 20% điều trị trên
300 ca mụn nhọt, áp-xe cho thấy: Thuốc có tác
dụng tiêu viêm, giảm đau, chống phù nề và
khứ mủ khá tốt, thông thường chỉ sau 1
lần đắp cảm giác đau đã giảm rõ
rệt, sau 3-7 lần tổn thương sạch mủ và
dần hồi phục. Kết quả nghiên cứu dược
lý thực nghiệm đã chứng minh: Dịch chiết
10% hoa phù dung có tác dụng ức chế khá mạnh đối
với tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn tan huyết
và trực khuẩn mủ xanh; Với trực khuẩn thương
hàn và coli cũng có tác dụng ức chế ở một
mức độ nhất định.
Chú thích ảnh: Phù dung.