Hoa lựu làm
thuốc
Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG
KHÁNH TOÀN (Khoa Đông y - Viện Quân 108)
MÔ
TẢ CÂY
Lựu (Punica granatum L.), c̣n gọi là tháp lựu, thạch
lựu, an thạch lựu, đan nhược, kim bàng, kim tượng,
tạ lựu..., là một loại cây nhỏ, thuộc
mộc, cao chừng 2-3m, thân xám, có vỏ mỏng, cành
mảnh, lá đơn mọc đối, h́nh thuôn dài, gân
5,6 đôi h́nh cung, mép nguyên cuống ngắn. Hoa lựu màu
đỏ tươi hoặc màu trắng (bạch lựu)
mọc riêng lẻ hoặc từng xim 3 hoa ở kẽ lá,
thường nở vào mùa hạ. Quả mọng, to
bằng nắm tay, h́nh cầu, mang đài c̣n lại ở
phía đỉnh, vỏ dày, ngoài da màu lục, khi chín có màu
vàng đỏ lốm đốm. Trong quả có 8 ngăn
xếp thành hai tầng, tầng trên có 5 ngăn, tầng dưới
có 3 ngăn, phân cách nhau bởi một màng mỏng.
Hạt rất nhiều, h́nh 5 cạnh, sắc hồng
trắng.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ CÔNG DỤNG
Cây lựu được trồng khắp nơi để
làm cảnh và lấy quả ăn. Vỏ thân, vỏ
rễ và đặc biệt là vỏ quả c̣n được
dùng làm thuốc với công dụng sáp tràng (làm săn se
niêm mạc), chỉ tả (cầm tiêu chảy), chỉ
huyết (cầm máu), khu trùng (trừ giun sán), chuyên dùng
để chữa các chứng bệnh như cửu tả
cửu lỵ (lỏng lỵ mạn tính), tiện
huyết, hoạt tinh, thoát giang (ḷi dom), băng lậu,
đới hạ (khí hư), trùng tích phúc thống (đau
bụng do giun sán)... Theo nghiên cứu dược lư
hiện đại, vỏ quả lựu có chứa tanin
10,4%, wax, resin 4,5%, D-mannitol, mucilage, gallic acid, malic acid, pectin,
calcium oxalate, gum, inulin, elaidic acid, isoquercetrin, cyanidin-3 -
glucoside, cyanidin-3,5 - diglucoside, pelargonidin-3,5 - diglucoside..., có tác
dụng băng se và bảo vệ niêm mạc đường
tiêu hóa, kháng khuẩn, kháng virus và tẩy giun sán.
Hoa lựu có vẻ đẹp rực rỡ và quư phái.
Cổ nhân có câu: "Ngũ nguyệt lựu hoa chiếu
nhăn minh", đại thi hào Nguyễn Du cũng đă
viết một câu thơ nổi tiếng về hoa lựu:
"Dưới trăng quyên đă gọi hè, đầu tường
lửa lựu lập ḷe đâm bông". Tuy nhiên, ít người
biết rằng, trong y học cổ truyền hoa lựu c̣n
là một vị thuốc độc đáo. Theo các y thư
cổ như Bản thảo cương mục, Thánh
tễ tổng lục, đắc phối bản thảo,
Phân loại thảo dược tính..., thạch lựu hoa
vị chua sáp, tính b́nh, có công năng chủ trị các
chứng bệnh như tỵ huyết (chảy máu cam),
thổ huyết (nôn ra máu), xuất huyết do trật
đả, kinh nguyệt không đều, lỵ tật,
bạch đới (khí hư), viêm tai giữa, đau răng...
MỘT SỐ CÁCH DÙNG CỤ THỂ
- Phế ung (áp-xe phổi): Hoa lựu trắng 7 đóa,
hạ khô thảo 9g, sắc uống. Hoặc hoa lựu 6g,
ngưu tất 6g nhẫn đông đằng (dây kim ngân)
15g, bách bộ 9g, bạch cập 30g, đường phèn
30g sắc uống.
- Phế kết hạch (lao phổi)
Hoa lựu trắng 30g, hạ khô thảo 30g sắc
uống.
- Ho và nôn ra máu: Hoa lựu trắng tươi 24 đóa,
đường phèn 15g sắc uống.
- Viêm tiền liệt tuyến: Hoa lựu trắng tươi
30g, nấu canh với thịt lợn ăn hàng ngày.
- Lỵ cấp và mạn tính: Hoa lựu trắng 18g,
sắc kỹ chia uống 3 lần trong ngày.
- Trĩ xuất huyết: Hoa lựu trắng 7 đóa,
đường phèn 9g sắc uống.
- Thoát giang (ḷi dom): Hoa hoặc vỏ quả lựu lượng
vừa đủ, phèn chua một chút, sắc kỹ
rồi cho thêm một ít bột ngũ bội tử sao, ngâm
hậu môn hàng ngày.
- Khí hư: Hoa lựu 3-5 đóa, sắc với chút rượu
uống. Hoặc hoa lựu 30g sắc kỹ, lấy nước
bỏ bă rồi ngâm rửa âm đạo.
- Băng lậu: Hoa lựu 9g, trắc bá diệp 9g, sắc
uống. Hoặc hoa lựu 3-5 sắc với rượu
uống.
- Viêm tai giữa: Hoa lựu lượng vừa đủ,
sấy khô, cho thêm chút băng phiến rồi tán thành
bột mịn, mỗi lần lấy một ít thổi vào
tai bị bệnh. Hoặc hoa lựu 50g đem ngâm với
250ml rượu trắng, sau 10 ngày th́ dùng được,
lọc kỹ qua gạc vô trùng rồi cho thêm 4g băng
phiến. Khi dùng, cần vệ sinh cho tai sạch mủ
rồi dùng dịch thuốc nhỏ vào tai, mỗi ngày
nhỏ 3 - 4 lần, mỗi lần 1-2 giọt.
- Chảy máu mũi: Hoa lựu lượng vừa đủ,
sấy khô tán bột rồi lấy một chút thổi vào
lỗ mũi. Hoặc hoa lựu 6g sắc uống. Hoặc
hoa lựu tươi, rửa sạch giă nát rồi nhét vào
lỗ mũi.
- Đau răng: Hoa lựu lượng vừa đủ
sắc uống thay trà hàng ngày.
- Viêm loét miệng: Hoa lựu đốt tồn tính, tán
bột rồi bôi vào chỗ loét, mỗi ngày 2 lần. Có
thể cho thêm một chút thanh đại th́ càng tốt.
- Bỏng: Hoa hoặc vỏ quả lựu lượng
vừa đủ, sấy khô tán bột rồi trộn
với dầu vừng bôi lên tổn thương.
- Vết thương xuất huyết: Hoa lựu khô tán
vụn rồi rắc lên vết thương. Hoặc hoa
lựu 1 phần, thạch khôi 2 phần, hai thứ sấy
khô, tán thành bột mịn, rắc vào tổn thương.
Hoa lựu nên thu hái khi mới nở, dùng tươi
hoặc đem phơi trong bóng râm cho khô rồi cất
giữ nơi khô ráo để dùng dần. Cũng như
vỏ quả và vỏ rễ, hoa lựu không nên dùng cho người
bị táo bón.