Thiên
bảy: ÂM DƯƠNG BIỆT
LUẬN
Hoàng
Đế hỏi:
Người
có 4 kinh, 12 tùng là thế nào? (24).
Kỳ
Bá thưa:
Bốn
kinh ứng với 4 mùa, 12 tùng ứng 12 tháng, mười
hai tháng ứng 12 mạch (1). (25).
Mạch
có Âm Dương khác nhau. Biết dương sẽ
biết được Âm, biết Âm sẽ biết
được dương (1) (26).
Phàm
về Dương gồm có cả năm. Năm lần năm
sẽ có hai mươi nhăm phần Dương (2) (26).
Phàm
gọi là Âm, tức là chân tạng. Nếu chân tạng
hiện sẽ bại, bại sẽ chết (3) (27).
Phàm
gọi là Dương tức là dương của Vị
quản (4) (28).
Phân
biệt được Dương sẽ biết được
bệnh ở đâu; Phân biệt được Âm sẽ
biết được th́ kỳ chết hay sống (5)
(29). Mạch của ba kinh Dương ở đầu,
mạch của ba kinh Âm ở tay, nhưng cũng chỉ do
có một (6) (30).
Phân
biệt được mạch về Dương, sẽ
biết được cái ngày kỵ của bệnh; phân
biệt được mạch về Âm sẽ biết
được th́ kỳ chết hay sống (7) (31).
Nhớ
kỹ mạch về Âm dương, không nên tin lời bàn
bậy (8) (32).
Phàm
mạch gọi là Âm dương: nhân ở ‘khứ’ là
Âm, ‘chí’ là dương, tĩnh là Âm, động là dương,
tŕ là Âm, sác là dương (1) (33). Phàm muốn nhận
mạch của chân tạng, nếu can ‘chí’ huyền
tuyệt và ‘cấp’, 18 ngày sẽ chết; Tâm ‘chí’
huyền tuyệt, 9 ngày sẽ chết; Phế ‘chí’
huyền tuyệt, 12 ngày sẽ chết; Thận ‘chí’
huyền tuyệt, 7 ngày sẽ chết; Tỳ ‘chí’
huyền tuyệt, 4 ngày sẽ chết (2) (34).
Bệnh
về Nhị dương, phát sinh bởi Tâm và Tỳ.
Về con gái, do sự uất kết, khiến cho nguyệt
sự không thấy rồi truyền thành chứng phong tiêu.
Nếu lại truyền làm chứng Tức bôn sẽ
chết không chữa được (1) (35).
Bệnh
về Tam dương, phát ra chứng hàn nhiệt (rét nóng),
ở bộ phận dưới thành chứng ung thũng,
với ‘nuy, quyết, suyễn quyên’ (1).
Hoặc
lại thêm chứng b́ phu khô khan, hoặc chứng ‘đồi
sán’ (2) (36).
Bệnh
về Nhất dương thiểu khí (ít hơi) hay ho, hay
tiết (1) (37).
Rồi
truyền thành chứng Tâm thống, và thành chứng Cánh
(2)
Bệnh
về Nhị dương Nhất Âm, chủ về kinh hăi,
bối thống, hay ợ, hay vươn vai...gọi là
chứng phong quyết (38).
Bệnh
về Nhị Âm Nhất dương, hay trướng, Tâm măn,
hay thở dài (1) (39).
Bệnh
và Tam dương Tam Âm gây nên chứng thiên khô, nuy
dịch, và tứ chi không cử động được
(1) (40)
Aùn
vào mạch, thấy bật lên ‘nhất dương’,
gọi là câu; thấy bật lên ‘nhất Âm’ gọi là
Mao; thấy dương mạch bật lên mà cấp,
gọi là Huyền; thấy dương mạch bật lên
mà tuyệt, gọi Thạch;, thấy Âm Dương hai
mạch, có vẻ b́nh quân, gọi là Lưu (1) (41).
Âm
tranh dành ở bên trong, Dương rắc rối ở bên
ngoài; phách hăn không thâu tạng, tức nghịch sẽ nóùåi
dậy; rồi hun lên Phế, gây nên suyễn minh (1) (42).
Âm
đó sinh ra, gốc có ḥa mới là ḥa (2). Nếu cương
gặp cương, Dương khí sẽ bị phá tán. Âm
khí cũng bị tiêu vong (3) (43).
Cương
nhu không ḥa, kinh khí sẽ tuyệt (4) (44).
Về
loài tử Âm, chẳng qua 3 ngày th́ chết; về loài sinh
dương, chẳng qua 4 ngày th́ chết (1) (45).
Can
truyền sang Tâm v.v...gọi là Sinh dương;, Tâm
truyền sang Phế; gọi là tử Âm (2) (46).
Phế
truyền sang Thận, gọi là trùng Âm; Thận truyền
sang Tỳ, gọi là tịch Âm. Chết, không chữa
được (3) (47).
Nếu
kết về dương, th́ thũng ở tứ chi (1)
(48).
Nếu
kết về Âm, th́ tiện huyết hai thăng, tái
kết th́ hai thăng, tam kết th́ ba thăng (2) (49).
Nếu kết ở khoảng Âm dương khe nhau,
nhiều về bên Âm, ít về bên dương, th́ gọi
là Thạch thủy, thũng ở Thiếu phúc (3) (50).
Hai
dương kết, gọi là Tiêu (4) (51).
Ba
dương kết, gọi là Cách (5) (52).
Ba
Âm kết, gọi là Thủy (6) (53)
Một
Âm một dương kết, gọi là Hầu tư (7).
Âm
‘bác’ Dương ‘biệt’, là mạch có thai (1); Âm dương
đều hư, sẽ sinh chứng trường tiết mà
chết (2) (55).
Dương
xen vào Âm, sẽ thành chứng hăn (3); Âm ‘hư’, dương,
‘bác’, sẽ thành chứng băng (4) (56).
Mạch
ở Tam Âm đều ‘bác’, tới nửa đêm ngày
thứ hai mươi, sẽ chết (1) (57)
Mạch
ở Nhị Âm đều ‘bác’, tới lúc mặt
trời lặn ngày thứ mười ba, sẽ chết (2)
(58)
Mạch
ở Nhất Âm đều ‘bác’, tới ngày
thứ mười sẽ chết (3) (59)
Mạch
ở Tam dương đều ‘bác’ và ‘cổ’,
tới ngày thứ ba sẽ chết (5) (60)
Mạch
ở Tam Âm, Tam dương đều ‘bác’, Tâm măn (đầy)
Âm Dương ở phục bộ phát ra hết, như có
sự uất kết...Tới ngày thứ năm, sẽ
chết (5) (61).
Mạch
ở Nhị dương đều ‘bác’, sẽ mắc
bệnh ‘ôn’, nguy; không quá 10 ngày, sẽ chết (6) (62).
黄帝问曰:人有四经十二从,何谓?岐伯对曰:四经应四时,十二从应十二月,十二月应十二脉。脉有阴阳,知阳者知阴,知阴者知阳。凡阳有五,五五二十五阳。所谓阴者,真藏也,见则为败,败必死也;所谓阳者,胃脘之阳也。别于阳者,知病处也;别于阴者,知死生之期。
三阳在头,三阴在手,所谓一也。别于阳者,知病忌时;别于阴者,知死生之期。谨熟阴阳,无与众谋。
所谓阴阳者,去者为阴,至者为阳;静者为阴,动者为阳;迟者为阴,数者为阳。凡持真脉之藏脉者,肝至悬绝急,十八日死;心至悬绝,九日死;肺至悬绝,十二日死;肾至悬绝,七日死;脾至悬绝,四日死。
曰:二阳之病发心脾,有不得隐曲,女子不月;其传为风消,其传为息贲者,死不治。
曰:三阳为病,发寒热,下为痈肿,及为痿厥(月耑)(疒[娟-女]);其传为索泽,其传为颓疝。
曰:一阳发病,少气善咳善泄;其传为心掣,其传为隔。
一阳曰钩,鼓一阴曰毛,鼓阳胜急曰弦,鼓阳至而绝曰石,阴阳相过曰溜。
阴争于内,阳扰于外,魄汗未藏,四逆而起,起则熏肺,使人喘鸣。阴之所生,和本曰和。是故刚与刚,阳气破散,阴气乃消亡。淖则刚柔不和,经气乃绝。
死阴之属,不过三日而死;生阳之属,不过四日而死。所谓生阳死阴者,肝之心,谓之生阳。心之肺,谓之死阴。肺之肾,谓之重阴。肾之脾,谓之辟阴,死不治。
结阳者,肿四支。结阴者便血一升,再结二升,三结三升。阴阳结斜,多阴少阳曰石水,少腹肿。二阳结谓之消,三阳结谓之隔,三阴结谓之水,一阴一阳结谓之喉痹。阴搏阳别谓之有子。阴阳虚肠辟死。阳加于阴谓之汗。阴虚阳搏谓之崩。
三阴俱搏,二十日夜半死。二阴俱搏,十三日夕时死。一阴俱搏,十日死。三阳俱搏且鼓,三日死。三阴三阳俱搏,心腹满,发尽不得隐曲,五日死。二阳俱搏,其病温,死不治,不过十日死。