Thiên
bốn mươi tư: NUY LUẬN
Hoàng
Đế hỏi:
Năm
Tàng, gây nên chứng Nuy, thế nào? [1]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Phế
chủ về b́ mao, Tâm chủ về huyết, Can chủ
về cân mạc, Tỳ chủ về cơ nhục,
Thận chủ về cốt tủy [2].
Phế
nhiệt, lá phổi khô, b́ mao do đó hư nhược
cấp bách, gây nên chứng Nuy bịch [3].
Tâm
khí nhiệt, thời mạch ở dưới, quyết mà
nghịch lên trên, do đó mạch ở dưới hư,
v́ hư sinh ra mạch nuy, ống chân ră rời không bước
đi được [4].
Can
khí nhiệt thời đởm rà ra mà miệng đắng,
cân mạc khô, v́ khô nên cân cấp mà co rút, thành
chứng Cân nuy [5].
Tỳ
khí nhiệt, thời Vy khô mà khát, cơ nhục bất nhân,
thành chứng nhục nuy [6].
Thận
khí nhiệt nên “yêu, tích” không cất lên được,
xương khô mà tủy vơi, thành chứng cốt nuy
[7].
Hoàng
Đế hỏi:
Xin
cho biết rơ nguyên nhân... [8]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Phế
là một quan “trưởng” của các Tàng, nó như cái
“lọng” che cho Tâm, Có sự ǵ bỏ mất, cầu không
thể được, thời gây nên chứng.
Phế
minh (kêu). Kêu thời Phế nhiệt mà Phế diệp khô
đét đi... Nên mới nói:
“Năm
Tàng do “Phế nhiệt, diệp tiêu”, gây nên chứng
Nuy bịch (chân lỏng gân, không lê đi được)
[9].
Bi
ai quá độ thời bào mạch tuyệt. Bào mạch
tuyệt khiến cho Dương khí phát động ở bên
trong, do đó Tâm hạ huyết băng, thành chứng
tiểu ra huyết. Cho nên ở bản kinh nói: “Đại
kinh không hư, gây nên chứng cơ tư, truyền làm
chứng Mạch Nuy” [10].
Nghĩ
ngợi quá độ, không được toại
nguyện, ư dâm ở bên ngoài, lại nhập pḥng vô
hạn, tông cân ră rời, thành chứng cân nuy, và Bạch
dâm (tinh khí tự tiết ra). Cho nên kinh nói: “chứng Cân
nuy sinh ra bởi Can mà nguyên nhân là sự nhập pḥng”
[11].
V́
yêm lưu ở nơi ẩm thấp, khiến cho thấp
khí thấm thía ở trong Cơ nhục, thành “tư” mà
bất nhân, do đó gây nên chứng Nhục nuy. Cho nên Kinh
nói: “Nhục nuy gây nên bởi thấp” [12].
V́
sự đi xa nhọc mệt, gặp đại nhiệt mà
khát, v́ khát nên Dương khí bị suy sút ở bên trong,
do đó nhiệt sẽ thừa cơ kư túc ở Thận.
Thận là Thủy tàng. Giờ Thủy không thắng
được Hỏa, thời xương khô mà tủy vơi,
nên chân không thể đi xuống đất, gây nên
chứng Cốt nuy. Cho nên ở Kinh nói: “chứng Cốt
nuy gây nên bởi đại nhiệt” [13].
Hoàng
Đế hỏi:
Lấy
ǵ để phân biệt? [14]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Phế
nhiệt thời sắc mặt trắng bợt mà lông
rụng [15]. Tâm nhiệt thời sắc mặt đỏ mà
Lạc mạch ràn [16]. Cam nhiệt thời sắc mặt tái
xanh mà móng tay khô [17]. Tỳ nhiệt thời sắc
mặt vàng mà thịt trường rung động [18].
Thận nhiệt thời sắc mặt đen xạm mà răng
se [19].
Hoàng
Đế hỏi:
Vậy
sao nói đến phương pháp trị chứng. Nay
lại chuyên trách về Dương minh, là thế nào? [20]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Dương
minh là cái biểu của năm Tàng, sáu Phủ, chủ
về làm nhuận cho tông cân, tông cân chủ về bó ràng
ngoài xương, để cho các khớp được
hoạt lợi [21]. Xung mạch là biểu của Kinh
mạch. Chủ thấm nhuần cho các Khê, Cốc (các
bắp thịt lớn, nhỏ), cùng với Dương minh
hợp vào tông cân. Aâm, Dương bao trùm tất cả
chỗ hội họp của tông cân [22]. Aâm dương
bao trùm tất cả chỗ hội họp của Tông cân,
để hội ở Khí khái, mà Dương minh sẽ là
Trưởng, đều thuộc về Đái mạch, mà
“lại’ sang Đốc mạch. Cho nên hễ Dương
minh bị hư thời Tông cân bị lỏng ra, Đái
mạch không dẫn tới nữa, cho nên chân “nuy” không
dùng được [23]. Điều trị thế nào? [24]
Trước phải bổ Vinh, rồi thông đến Du, làm
cho những hư thực được quân b́nh, những
nghịch thuận được điều ḥa, cân
mạch, cốt, nhục đều theo đúng vào mùa và
tháng... Thời bệnh khỏi (1) [25].
Hoàng
Đế khen là đúng.
痿论篇第四十四
黄帝问曰:五藏使人痿何也?岐伯对曰:肺主身之皮毛,心主身之血脉,肝主身之筋膜,脾主身之肌肉,肾主身之骨髓。故肺热叶焦,则皮毛虚弱急薄,著则生痿躄也;心气热,则下脉厥而上,上则下脉虚,虚则生脉痿,枢折挈,胫纵而不任地也;肝气热,则胆泄口苦筋膜干,筋膜干则筋急而挛,发为筋痿;脾气热,则胃干而渴,肌肉不仁,发为肉痿;肾气热,则腰脊不举,骨枯而髓减,发为骨痿。
帝曰:何以得之?岐伯曰:肺者,藏之长也,为心之盖也;有所失亡,所求不得,则发肺鸣,鸣则肺热叶焦,故曰,五藏因肺热叶焦发为痿躄,此之谓也。悲哀太甚,则胞络绝,胞络绝,则阳气内动,发则心下崩,数溲血也。故《本病》曰:大经空虚,发为肌痹,传为脉痿。思想无穷,所愿不得,意淫于外,入房太甚,宗筋弛纵,发为筋痿,及为白淫,故《下经》曰:筋痿者,生于肝使内也。有渐于湿,以水为事,若有所留,居处相湿,肌肉濡渍,痹而不仁,发为肉痿。故《下经》曰:肉痿者,得之湿地也。有所远行劳倦,逢大热而渴,渴则阳气内伐,内伐则热舍于肾,肾者水藏也,今水不胜火,则骨枯而髓虚,故足不任身,发为骨痿。故《下经》曰:骨痿者,生于大热也。
帝曰:何以别之?岐伯曰:肺热者色白而毛败,心热者色赤而络脉溢,肝热者色苍而爪枯,脾热者色黄而肉蠕动;肾热者色黑而齿槁。
帝曰:如夫子言可矣,论言治痿者独取阳明,何也?岐伯曰:阳明者,五藏六府之海,主润宗筋,宗筋主骨而利机关也。冲脉者,经脉之海也,主渗灌谿谷,与阳明合于宗筋,阴阳揔宗筋之会,会于气街,而阳明为之长,皆属于带脉,而络于督脉。故阳明虚则宗筋纵,带脉不引,故足痿不用也。
帝曰:治之奈何?岐伯曰:各补其荥而通其俞,调其虚实,和其逆顺,筋、脉、骨、肉各以其时受月,则病已矣。帝曰:善。