Thiên
hai mươi: TAM BỘ CỬU HẬU LUẬN
Hoàng
Đế hỏi rằng:
Tôi
nghe về phép cứu châm, ứng với trời đất,
ứng với Aâm Dương, hợp với bốn mùa và
5 hành... Đường lối như thế nào, xin cho
biết [1].
Kỳ
Bá thưa rằng:
Chí
số của trời đất, bắt đầu tứ
số một (1), cuối cùng là số chín (9). Một là
trời hai là đất, ba là người. Vậy ba
lần ba là chín, để ứng với chín “dă” [2].
Ở
con người chia làm ba bộ, mỗi bộ có ba hậu,
để quyết sống chết, để trị trăm
bệnh, để điều hư thực mà trừ tà
tật [3].
Hoàng
Đế hỏi:
Ba
bộ là ǵ? [4]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Có
hạ bộ, có trung bộ, có thượng bộ. Mỗi
bộ có ba hậu, tức là trời, đất và người
[5].
Thượng
bộ về trời, ứng vào động mạch ở
hai trán, thượng bộ về đất, ứng vào
động mạch ở hai bên má, thượng bộ
về người, ứng vào động mạch ở hai
bên tai [6].
Trung
bộ về trời, thuộc thủ Thái âm, trung bộ
về đất thuộc thủ Dương minh, trung
bộ về người, thuộc thủ Thiếu âm [7].
Hạ
bộ về trời, thuộc túc Quyết âm, Hạ
bộ về đất, thuộc túc Thiếu âm, Hạ
bộ về người, thuộc túc Thái âm [8].
Cho
nên hạ bộ về trời để hậu (nghe
mạch) cái khi của Can, đất để hậu cái
khí của Thận, người để hậu cái khí
của Tỳ Vị [9].
Hoàng
Đế hỏi:
Về
sự “hậu” của trung bộ như thế nào”
[10]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Cũng
có trời, đất, người khác nhau. Trời để
hậu Phế, đất để hậu khí ở trong
Hung, người để hậu Tâm [11].
Hoàng
Đế hỏi:
Về
sự “hậu” của thượng bộ như thế
nào? [12]
Cũng
có trời, đất, người khác nhau. Trời để
hậu khí ở đâu, đất để hậu khí
ở miệng và răng, người để hậu khí
ở tai và mắt [13].
Trong
ba bộ, đều có trời đất người. Do
ba mà thành trời, do ba mà thành đất, do ba mà thành người
(tức ở trong 9 hậu mỗi hậu đều có ba)
[14].
Ba
nhân với ba thành chín. Số chín đó chia làm 9 dă, 9 dă
lại hợp với 9 Tàng [15].
Về
thần Tàng có năm (1) về h́nh Tàng có bốn (2),
hợp lại thành 9 Tàng [16].
Năm
Tàng đến lúc bại, sắc tất bợt ra. Bợt
ra thời hẳn chết [17].
Hoàng
Đế hỏi
Về
phép “hậu” như thế nào? [18]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Trước
phải nhận xem người gầy hay béo, để xét
xem khí hư hay thực. Thực trời tả, hư
thời bổ. Phải trừ bỏ tà khí trong huyết
mạch rồi mới có thể điều ḥa. Không
cứ ǵ bệnh khó hay dễ, cốt làm cho khí được
quân b́nh [19].
Hoàng
Đế hỏi:
Quyết
chết sống như thế nào? [20]
Kỳ
Bá thưa rằng:
H́nh
thịnh, mạch tế, hơi ít như không đủ
để thở, là bệnh nguy [21].
H́nh
gầy, mạch đại, trong hung hơi nghẽn, là
bệnh nguy [22].
Lúc
đại, lúc tiểu, lúc tật, lúc từ... mạch
đi không đều... là bệnh nguy [23].
Ba
bộ, chín hậu, mạch đều trái nhau, sẽ
chết [24].
Mạch
ở trên, dưới tả, hữu cứ so le không
khớp với nhau, là bệnh nặng [25].
Mạch
ở trên, dưới tả, hữu đều trái nhau không
c̣n nhận được bao nhiêu “chí” là bệnh
chết [26].
Mạch
ở trung bộ, hậu dù có nhiều, nhưng lại trái
hẳn với các tàng khác... là bệnh chết [27].
Mạch
ở trung bộ, hậu dù có điều, nhưng lại
trái hẳn với các tàng khác... là bệnh chết [28].
Mạch
ở Trung bộ, hậu rất mỏng manh, là bệnh
chết [29].
Mắt
lơm xuống, là bệnh chết [30].
Hoàng
Đế hỏi:
Sao
biết được bệnh ở đâu?
Kỳ
Bá thưa rằng:
Xét
ở chín hậu, mạch nếu thiên về “tiểu”,
thiên về đại, là mắc bệnh, thiên về
tật, thiên về tŕ, thiên về nhiệt, thiên về hàn,
hoặc thiên về hăm, hạ... đều là mắc
bệnh [31].
Dùng
tay tả của ḿnh, án lên chân bệnh nhân, cách xương
“khoai” năm tấc, rồi tay hữu của ḿnh gơ lên
xương “khoai” của bệnh nhân. Nếu mạch
ứng lên quá 5 tấc, có vẻ hơi bật bật
đều đều, thế là vô bệnh, nếu ứng
lên tay nhanh, có vẻ tuồn tuồn... là mắc bệnh,
hoặc lại chậm chạp bợt bạc... Cũng là
mắc bệnh [32].
Nếu
mạch ứng lên, trên không tới được 5
tấc (tấc ở đây, thuộc về quan xích đời
xưa), dù có gơ lên xương cũng không thấy,
bệnh sẽ chết [33].
Bệnh
nhân, thịt tiêu ṃn hết, sẽ chết [34].
Mạch
ở Trung bộ, lúc xơ, lúc sác sẽ chết [35].
Nếu
mạch hiện ra Đại mà Câu, là bệnh tại
Lạc [36].
Chín
hậu cùng ứng, hợp nhau như một, không
được so le. Nếu một “hậu” chậm
lại sau, là bệnh nguy. Nóùi “chậm lại sau”
tức là mạch ứng không đều [37].
Xét
ở Phù Tàng, để đoán biết cái thời kỳ
sống chết [38].
Phải
trước biết Kinh mạch, rồi sau mới biết
được bệnh mạch -Mỗi khí mạch của
Chân tàng hiện ra, gặp cái ngày “thắng” (khắc),
sẽ chết [39].
Kinh
Túc Thái dương khí tuyệt bệnh nhân chân không
thể co duỗi, khi chết tất trợn mắt [40].
Hoàng
Đế hỏi?
Mùa
Đông thuộc âm, mùa Hạ thuộc Dương, ứng
với người thế nào [41].
Kỳ
Bá thưa rằng:
Mạch
chín hậu, đều Trầm, Tế cách tuyệt nhau
thế là âm, thuộc Đông, nên chết về khoảng
nửa đêm, nếu mạch thịnh, táo, sác và
suyễn. Thế là Dương, thuộc hạ, nên
chết về đúng trưa. Phàm bệnh hàn nhiệât,
thường chết về lúc sáng rơ, chứng Nhiệt
trung với bệnh nhiệt, cũng chết về lúc
đúng trưa, bệnh phong, chết về lúc mặt
trời lặn, bệnh thủy, chết về nửa
đêm, mạch lúc xơ, lúc sác, lúc tật, lúc tŕ...
Tới ngày tứ quư sẽ chết [42].
43)
Thịt ở thân thể tiêu ṃn hết, chín hậu dù
đều, cũng chết [43].
44)
Bảy phép chẩn dù có đủ (1), nhưng chín hậu
đều thuận, không chết [44].
Hoàng
Đế hỏi:
Như
thế nào, có thể chữa được? [45]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Bệnh
về kinh mạch thời trị kinh mạch, bệnh
về Tôn lạc thời trị Tôn lạc. Huyết
bệnh mà ḿnh có đau, thời trị ở kinh lạc.
Nếu phạm phải kỳ tà (tức tà khí lạ lùng,
ít khi có), xét luồng mạch kỳ tà để thích.
Bệnh đă lâu ngày, tụ ở khớp xương, nên
thích ngay ở khớp xương. Nếu trên thực dưới
hư, huyết mạch không thông, nên t́m chỗ kết
ở lạc mạch mà thích cho thấy có máu (1) [46].
Đồng
tử đột cao lên, do khí ở Thái dương
bất túc. Mắt trợn lên, do khí ở Thái dương
đă tuyệt. Đó là cái cốt yếu để
quyết sinh tử, phải xét kỹ mới được
[47].
黄帝问曰:余闻九针于夫子,众多博大,不可胜数。余愿闻要道,以属子孙,传之后世,着之骨髓,藏之肝肺,歃血而受,不敢妄泄,令合天道,必有终始,上应天光星辰历纪,下副四时五行,贵贱更互,冬阴夏阳,以人应之奈何,愿闻其方。
岐伯对曰:妙乎哉问也!此天地之至数。帝曰:愿闻天地之至数,合于人形,血气通,决死生,为之奈何?岐伯曰:天地之至数,始于一,终于九焉。一者天,二者地,三者人,因而三之,三三者九,以应九野。故人有三部,部有三候,以决死生,以处百病,以调虚实,而除邪疾。
帝曰:何谓三部。岐伯曰:有下部,有中部,有上部,部各有三候,三候者,有天有地有人也,必指而导之,乃以为真。上部天,两额之动脉;上部地,两颊之动脉;上部人,耳前之动脉。中部天,手太阴也;中部地,手阳明也;中部人,手少阴也。下部天,足厥阴也;下部地,足少阴也;下部人,足太阴也。故下部之天以侯肝,地以候肾,人以候脾胃之气。
帝曰:中部之候奈何?岐伯曰:亦有天,亦有地,亦有人。天以候肺,地以候胸中之气,人以候心。帝曰:上部以何候之。岐伯曰:亦有天,亦有地,亦有人,天以候头角之气,地以候口齿之气,人以候耳目之气。三部者,各有天,各有地,各有人。三而成天,三而成地,三而成人,三而三之,合则为九,九分为九野,九野为九藏。故神藏五,形藏四,合为九藏。五藏已败,其色必夭,夭必死矣。
帝曰:以候奈何?岐伯曰:必先度其形之肥瘦,以调其气之虚实,实则写之,虚则补之。必先去其血脉而后调之,无问其病,以平为期。
帝曰:决死生奈何?岐伯曰:形盛脉细,少气不足以息者,危。形瘦脉大,胸中多气者,死。形气相得者,生。参伍不调者,病。三部九候皆相失者,死。上下左右之脉相应如参舂者,病甚。上下左右相失不可数者,死。中部之候虽独调,与众藏相失者,死。中部之候相减者,死。目内陷者死。
帝曰:何以知病之所在。岐伯曰:察九候,独小者病,独大者病,独疾者病,独迟者病,独热者病,独寒者病,独陷下者病。以左手足上,去踝五寸按之,庶右手足当踝而弹之,其应过五寸以上,蠕蠕然者,不病;其应疾,中手浑浑然者,病;中手徐徐然者,病;其应上不能至五寸,弹之不应者,死。是以脱肉身不去者,死。中部乍疏乍数者,死。其脉代而钩者,病在络脉。九候之相应也,上下若一,不得相失。一候后则病,二候后则病甚,三候后则病危。所谓后者,应不俱也。察其府藏,以知死生之期。必先知经脉,然后知病脉,真藏脉见者胜死。足太阳气绝者,其足不可屈伸,死必戴眼。
帝曰:冬阴夏阳奈何?岐伯曰:九候之脉,皆沉细悬绝者为阴,主冬,故以夜半死。盛躁喘数者为阳,主夏,故以日中死。是故寒热病者,以平旦死。热中及热病者,以日中死。病风者,以日夕死。病水者,以夜半死。其脉乍疏乍数乍迟乍疾者,日乘四季死。形肉已脱,九候虽调,犹死。七诊虽见,九候皆从者不死。所言不死者,风气之病,及经月之病,似七诊之病而非也,故言不死。若有七诊之病,其脉候亦败者死矣,必发哕噫。必审问其所始病,与今之所方病,而后各切循其脉,视其经络浮沉,以上下逆从循之,其脉疾者不病,其脉迟者病,脉不往来者死,皮肤着者死。
帝曰:其可治者奈何?岐伯曰:经病者治其经,孙络病者治其孙络血,血病身有痛者,治其经络。其病者在奇邪,奇邪之脉则缪刺之。留瘦不移,节而刺之。上实下虚,切而从之,索其结络脉,刺出其血,以见通之。瞳子高者,太阳不足,戴眼者,太阳已绝,此决死生之要,不可不察也。手指及手外踝上五指,留针。