Thiên
mười tám: B̀NH NHÂN KHI TƯỢNG LUẬN
Hoàng
Đế hỏi rằng:
Mạch
của b́nh nhân (người vô bệnh) như thế nào?
[1]
Kỳ
Bá thưa rằng:
Người
ta một lần hô (thở ra), mạch động tới
2 lần, một lần hấp (hút vào), mạch cũng
động tới 2 lần. Nhân sự hô hấp để
định hơi thở, và xen (nhuận) với lúc
ngừng thở, mạch động tới 5 lần, như
thế là b́nh nhân. B́nh nhân tức là người vô
bệnh (1) [2].
Nên
lấy người vô bệnh để chẩn mạch người
có bệnh. Nhưng lúc chẩn, phải giữ hơi
thở của ḿnh cho điều ḥa, mới biết
được mạch “động” của người
kia đúng hay không đúng [3].
Phàm
người, một hô, mạch động 3 lần,
một hấp mạch động 3 lần...Đó là táo
cấp (tức thái quá), ở xích bộ có nhiệt, là
bệnh ôn, nếu xích bộ không nhiệt, mạch
lại có vẻ hoạt, đó là bệnh phong, nếu
lại có vẻ sắc, đó là bệnh Tư (bệnh
thuộc âm) [4].
Phàm
người, mộ hô, mạch động 4 lần một
hấp mạch động 4 lần trở lên, đó là
tử mạch, nếu mạch tuyệt không “chí” cũng
chết, mạch lúc thưa, lúc sác, cũng chết [5].
Phàm
b́nh nhân, khi phát sinh từ Vị, Vị là thường
khi của b́nh nhân [6].Người không có Vị khi gọi
là “nghịch”. Nghịch cũng chết [7].Mạch án
về mùa xuân, có Vị khi mà mạch hơi Huyền là b́nh
[8]. Huyền nhiều, Vị ít, đó là bệnh
ở Can [9]. Chỉ huyền, không có Vị khí, sẽ
chết [10]. Có Vị khí mà mạch thể có vẻ mao,
tới mùa thu sẽ phát bệnh, nếu mao nhiều,
bệnh sẽ phát ngay [11]. Chân khí của tàng phân tán
khắp ở Can, tức là những khí ở cái cân,
mạc (gân và da màng) bao bọc ở bên ngoài can (1) [12].
Mạch
án về mùa hạ, có Vị khí, mà hơi “Câu”
(mạch tượng của mùa hạ), là b́nh. Nếu câu
nhiều, Vị khí ít là Tâm bệnh: chỉ câu mà không có
Vị khí, sẽ chết [13].
Có
vị khí mà mạch thể có vẻ “thạch” tới
mùa Đông sẽ phát bệnh, nếu “thạch nhiều,
bệnh sẽ phát ngay [14].
Chân
khí của tàng thông lên Tâm, v́ Tâm tàng cái khí của
huyết mạch [15].
Mạch
án về mùa Trường hạ, có Vị khí mà hơi
nhuyễn nhược là b́nh. Nếu “nhược”
nhiều Vị khí ít là Tỳ bệnh [16]. Mạch
thể chỉ có “đại” mà không có Vị khí
sẽ chết [17].
Nhuyễn
nhược là lại kiêm có vẻ Thạch, tới mùa
đông sẽ phát bệnh. Nếu “nhước”
nhiều, sẽ phát bệnh ngay [18].
Chân
khí của tàng thấm thuần ở Tỳ, v́ Tỳ tàng
cái khí của cơ nhục [19].
Mạch
án về mùa Thu, có Vị khí mà hơi mao, là b́nh. Nếu
mao nhiều. Vị khí ít là phế bệnh. Nếu chỉ
thấy mao, không có Vị khí sẽ chết [20]. Mạch
mao mà lại kiêm Huyền, tới mùa Xuân sẽ phát
bệnh, nếu Huyền nhiều, sẽ phát bệnh ngay
[21].
Chân
khí của Tàng cao ở tận phế, để dẫn hành
vinh, vệ và âm dương [22].
Mạch
án về mùa Đông, có Vị khi mà hơi Thạch, là b́nh.
Nếu Thạch nhiều, Vị khí ít là thận bệnh.
Nếu chỉ Thạch, không có Vị khí sẽ chết
[23].Thạch mà lại kiêm cả Câu, sẽ phát bệnh
về mùa Hạ, nếu Câu nhiều, sẽ phát bệnh
ngay [24].
Chân
khí của Tàng thấp ở Thận, Thận tàng cái khí
của cốt tủy [25].
Đại
lạc của Vị, tên là Hư lư, nóù suốt lên Cách,
chằng ngang vào Phế, ṿng xuống phía dưới
tả nhũ (vú bên trái), lúc nóù động có thể
“ứng y” (áo mạch sát vào ḿnh, khi mạch động,
chạm lên áo = bằng h́nh dung sự động
mạch). Mạch đó để nghe Tông khí (tức
Vị khí) [26].
Nếu
suyễn nhiều (Phế), mà mạch ở Hư lư thường
bị tuyệt đó là bệnh tại Chiên trung và Hoành
lạc bị tích trệ, nếu tuyệt hẳn không “chí”,
sẽ chết; nếu động quá đến nóùăi
“ứng y”, đó là Tông khí muốn tiết ra ngoài
(tức là mạch chết) [27].
Muốn
biết mạch Thốn khẩu, thái quá với bất
cập [28]. Nếu mạch ở Thốn khẩu, chỉ
“đoản” đúng vào ngón tay, đó thuộc về
bệnh đầu thống [29]. Mạch ở Thốn
khẩu, đúng vào ngón tay, mà “trường” đó
thuộc về bệnh đau ở xương ống chân
[30]. Mạch ở Thốn khẩu đúng vào ngón tay, mà
bật mạnh dồn lên, đó thuộc về bệnh
đau ở vai và lưng [31]. Mạch ở Thốn
khẩu Trầm mà Kiên, tức là bệnh ở bộ
phận trong [32]. Mạch ở Thốn khẩu Phù mà
thịnh, tức là bệnh ở bộ phận ngoài [33].
Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà Nhược,
thuộc về bệnh hàn [34] nhiệt và Sán, Giả,
đau ở Thiếu phúc. Mạch ở Thốn khẩu
Trầm mà hoành, thuộc về dưới hiếp có tích
và trong bụng có vật tích nằm ngang mà đau [35].
Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà lại có
suyễn (thở gấp, hổn hển), thuộc về
chứng hàn nhiệt (sốt rét, sốt nóùng) [36].
Mạch
thịnh, hoạt mà kiên, là bệnh ở bộ phận
ngoại, mạch tiểu thực mà kiện, là bệnh
ở bộ phận nóùäi [37]. Mạch tiểu, nhược
và sắc, là cửu bệnh [38]. Macïh phù hoạt mà
tật, là tân bệnh [39]. Mạch cấp là có chứng
“sán, giả” đau ở Thiếu phúc, mạch hoạt
là Phong [40]. Mạch sắc là Tỳ [41]. Mạch hoăn mà
hoạt là chứng nhiệt trung [42]. Mạch thịnh mà
khẩn là chứng trướng [43].
Mạch
thuận theo âm dương, bệnh dễ khỏi, mạch
trái ngược âm dương, bệnh khó khỏi,
mạch thuận với sinh khí của bốn mùa, bệnh
dễ khỏi, mạch trái với sinh khi của bốn mùa
mà lại “không gián tàng” bệnh khó khỏi (1) [44].
Cánh
tay có nhiều mạch máu xanh, gọi là thoát huyết [41].
Mạch ở xích bộ Hoăn bộ và sắc, gọi là
giải nóùïa (bệnh tại Tỳ [42]. Lúc nằm yên mà
mạch thịnh, cũng gọi là thoát huyết [43]. Xích
bộ sắc mà mạch lại Hoạt, là chứng
nhiều mồ hôi [44]. Xích bộ hàn mà mạch lại
Tế, sẽ là chứng Hậu tiết (ăn xong,
đi tả ngay) [45]. Mạch ở Xích bộ thô và thường
nóùng, thuộc về chứng Nhiệt trung [46].
Phàm
thấy mạch ở cổ động lên bật bật,
thở suyễn và khái, chứng thuộc về thủy
[47]. Mi mắt hơi thũng phồng lên như ngọa tàm
(con tằm nằm), chứng thuộc về thủy [48]. Nước
tiểu vàng đỏ, ưa nằm, là chứng Hoàng đản
[49]. Aên rồi mà bụng vẫn như đói, là
chứng Vị đản [50]. Mặt sưng phù ra , là
chứng phong [51]. Bộng chân sưng nặng là chứng
Thủy [52]. Ḷng trắng mắt vàng...cũng là chứng
Hoàng đản [53].
Đàn
bà, mạch thuộc kinh Thái âm động nhiều, là có
thai (1) [54].
Mạch
có khí hoặc nghịch hoặc thuận với bốn mùa.
Dù chưa hiện mạch của bản tàng, Xuân, Hạ mà
mạch lại xấu (giống như tế), Thu Đông mà
mạch lại Phù Đại… Như thế là nghịch
với bốn mùa [55].
Chứng
phong nhiệt mà mạch lại Tĩnh (nên phù động),
chứng tiết và thoát huyết, mà mạch lại
Thực (nên hư tán), bệnh ở trong mà mạch
lại Hư (nên trầm thực) bệnh ở ngoài mà
mạch lại kiên sắc (nên thăng phù)... Đều khó
chữa, v́ là trái với bốn mùa [56].
Con
người lấy thủy cốc làm gốc, nếu
tuyệt thủy cốc thời tất phải chết
[57]. Mạch không có Vị khí (tức khí của thủy
cốc) cũng chết [58]. Phàm gọi là không có Vị khí
(tức khí của Thủy cốc) cũng chết. Phàm
gọi là không có Vị khí, là chỉ thấy có chính
mạch của chân tàng mà không có vẻ ḥa hoăn làVị
khí xen vào. Không những thế, mà Can không huyền,
Thận không Thạch v.v...cũng là không được
Vị khí [59].
Mạch
ở kinh Thái dương đến, Hồng Đại mà
Trường [60]. Mạch ở kinh Thiếu dương
đến, lúc sác, lúc sơ, lúc đoản, lúc trường
[61]. Mạch ở kinh Dương minh đến, Phù Đại
mà Đoản [62].
Tâm
vô bệnh, mạch hiện ra, lườn lượt không
đứt như chuỗi ngọc, như dây
chuyền...Thuộc về mùa Hạ lấy Vị khí làm
gốc [63].
Nếu
có bệnh, mạch khớp khớp chấp nóùái, có lúc hơi
cong, nếu trước cong mà sau không động, như
cầm lưỡi câu... như thế là Tâm chết [64].
Phế
vô bệnh, mạch hiện ra êm đềm nhẹ nhàng như
chiếc lá rơi... Thuộc mùa Thu, lấy Vị khí làm
gốc [65].
Nếu
có bệnh, không lên không xuống, như phảy lông gà...
Nếu lại như vật nóùåi lềnh bềnh, không
gốc không rễ, như gió thổi chiếc lông,
trống không tán loạn... Như thế là Phế
chết [66].
Can
vô bệnh, mạch hiện ra mềm mại dịu dàng, như
vuốt ngọn Tràng. (Tràng, tre dài dùng làm Tràng, trên đầu
nhỏ và lướt mền). Thuộc mùa Xuân, lấy
Vị khí làm gốc [67]. Nếu có bệnh, đầy
đặc mà hoạt, như nắm trường can (trướng
can tức là “tràng”, nhưng đây nắm vào thân
chứ không vuốt ngọn, có vẻ cứng rắn hơn)...
nếu lại cấp mà cứng, như giương dây
cung (huyền), như thế là Can chết [68].
Tỳ
vô bệnh, mạch hiện ra ḥa nhu mà tương ly, bước
đi như gà (trong ḥa nhu mà có vẻ cách nhau không
liền). Thuộc mùa Trường Hạ, lấy Vị khí
làm gốc [69]. Nếu có bệnh, đầy đặc mà
vững chắc, không có ḥa như, chuyển du kém sức
(tức Tỳ khí không tán bố ra các Tàng khác) nếu
lại cứng và sắc, như đầu mỏ
quạ, như móng chân chim, thánh thót như nhà dột,
cuồn cuộn như nước trôi. Như thế là
Tỳ chết [70].
Thận
vô bệnh, mạch hiện ra ch́m nặng mà linh động
như nóùåi mà trong không, án nặng tay thời kiên.
Thuộc mùa Đông, lấy Vị khí làm gốc [71].
Nếu có bệnh, như lôi dây sắn, càng án mà càng kiên,
nếu lại dằng mạnh như giật dây, tŕnh
trịch như ném đá... Như thế là Thận
chết [72].
黄帝问曰:平人何如?岐伯对曰:人一呼脉再动,一吸脉亦再动,呼吸定息脉五动,闰以太息,命曰平人。平人者,不病也。常以不病调病人,医不病,故为病人平息以调之为法。人一呼脉一动,一吸脉一动,曰少气。人一呼脉三动,一吸脉三动而躁,尺热曰病温,尺不热脉滑曰病风,脉涩曰痹。人一呼脉四动以上曰死,脉绝不至曰死,乍疏乍数曰死。
平人之常气禀于胃,胃者,平人之常气也,人无胃气曰逆,逆者死。
春胃微弦曰平,弦多胃少曰肝病,但弦无胃曰死,胃而有毛曰秋病,毛甚曰今病。藏真散于肝,肝藏筋膜之气也,夏胃微钩曰平,钩多胃少曰心病,但钩无胃曰死,胃而有石曰冬病,石甚曰今病。藏真通于心,心藏血脉之气也。长夏胃微软弱曰平,弱多胃少曰脾病,但代无胃曰死,软弱有石曰冬病,弱甚曰今病。藏真濡于脾,脾藏肌肉之气也。秋胃微毛曰平,毛多胃少曰肺病,但毛无胃曰死,毛而有弦曰春病,弦甚曰今病。藏真高于肺,以行荣卫阴阳也。冬胃微石曰平,石多胃少曰肾病,但石无胃曰死,石而有钩曰夏病,钩甚曰今病。藏真下于肾,肾藏骨髓之气也。
胃之大络,名曰虚里,贯鬲络肺,出于左乳下,其动应衣,脉宗气也。盛喘数绝者,则病在中;结而横,有积矣;绝不至曰死。乳之下其动应衣,宗气泄也。
欲知寸口太过与不及,寸口之脉中手短者,曰头痛。寸口脉中手长者,曰足胫痛。寸口脉中手促上击者,曰肩背痛。寸口脉沉而坚者,曰病在中。寸口脉浮而盛者,曰病在外。寸口脉沉而弱,曰寒热及疝瘕少腹痛。寸口脉沉而横,曰胁下有积,腹中有横积痛。寸口脉沉而喘,曰寒热。脉盛滑坚者,曰病在外。脉小实而坚者,病在内。脉小弱以涩,谓之久病。脉滑浮而疾者,谓之新病。脉急者,曰疝瘕少腹痛。脉滑曰风。脉涩曰痹。缓而滑曰热中。盛而紧曰胀。
脉从阴阳,病易已;脉逆阴阳,病难已。脉得四时之顺,曰病无他;脉反四时及不间藏,曰难已。
臂多青脉,曰脱血。尺脉缓涩,谓之解(亻亦)。安卧脉盛,谓之脱血。尺涩脉滑,谓之多汗。尺寒脉细,谓之后泄。脉尺常热者,谓之热中。
肝见庚辛死,心见壬癸死,脾见甲乙死,肺见丙丁死,肾见戊己死,是谓真藏见,皆死。
颈脉动喘疾欬,曰水。目裹微肿如卧蚕起之状,曰水。溺黄赤安卧者,黄疸。已食如饥者,胃疸。面肿曰风。足胫肿曰水。目黄者曰黄疸。妇人手少阴脉动甚者,妊子也。
脉有逆从,四时未有藏形,春夏而脉瘦,秋冬而脉浮大,命曰逆四时也。风热而脉静,泄而脱血脉实,病在中,脉虚,病在外,脉涩坚者,皆难治,命曰反四时也。
人以水谷为本,故人绝水谷则死,脉无胃气亦死,所谓无胃气者,但得真藏脉不得胃气也。所谓脉不得胃气者,肝不弦肾不石也。
太阳脉至,洪大以长;少阳脉至,乍数乍疏,乍短乍长;阳明脉至,浮大而短。
夫平心脉来,累累如连珠,如循琅玕,曰心平,夏以胃气为本,病心脉来,喘喘连属,其中微曲,曰心病,死心脉来,前曲后居,如操带钩,曰心死。
平肺脉来,厌厌聂聂,如落榆荚,曰肺平,秋以胃气为本。病肺脉来,不上不下,如循鸡羽,曰肺病。死肺脉来,如物之浮,如风吹毛,曰肺死。
平肝脉来,软弱招招,如揭长竿末梢,曰肝平,春以胃气为本。病肝脉来,盈实而滑,如循长竿,曰肝病。死肝脉来,急益劲,如新张弓弦,曰肝死。
平脾脉来,和柔相离,如鸡践地,曰脾平,长夏以胃气为本。病脾脉来,实而盈数,如鸡举足,曰脾病。死脾脉来,锐坚如乌之喙,如鸟之距,如屋之漏,如水之流,曰脾死。
平肾脉来,喘喘累累如钩,按之而坚,曰肾平,冬以胃气为本。病肾脉来,如引葛,按之益坚,曰肾病。死肾脉来,发如夺索,辟辟如弹石,曰肾死。